Mở ra thị trường xuất khẩu rộng lớn thông qua EVFTA
EU là một trong những đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam, với kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 đạt 56,39 tỷ USD (trong đó xuất khẩu đạt 41,48 tỷ USD, nhập khẩu đạt 14,91 tỷ USD). Do đó, EVFTA được coi là đòn bẩy cho tăng trưởng, mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng với 508 triệu dân và tổng sản phẩm nội địa (GDP) khoảng 18.000 tỷ USD.
Dù EU là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, song trước khi có EVFTA, thị phần hàng hóa của Việt Nam tại khu vực này vẫn còn rất khiêm tốn, bởi năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam (đặc biệt là năng lực cạnh tranh về giá) còn hạn chế. Vì vậy, cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ trong Hiệp định EVFTA sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh về giá của hàng hóa Việt Nam với cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới gần 100% biểu thuế và giá trị thương mại mà hai bên đã thống nhất; cơ hội gia tăng xuất khẩu cho những mặt hàng Việt Nam có lợi thế như dệt may, da giày, nông thủy sản (kể cả gạo, đường, mật ong, rau củ quả), đồ gỗ... là rất đáng kể. Mức cam kết trong EVFTA có thể coi là mức cam kết cao nhất mà Việt Nam đạt được trong các FTA đã được ký kết cho tới nay.
Tuy nhiên, EVFTA cũng đặt ra những những vấn đề mới và nếu không có giải pháp đúng đắn sẽ trở thành thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. Nhờ EVFTA, người dân sẽ được tiếp cận với nhiều hàng hóa của EU vừa có chất lượng tốt, vừa có giá cả cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp Việt Nam, do đó, doanh nghiệp nào đổi mới công nghệ, sáng tạo mẫu mã mới, nâng cao chất lượng thì sức ép trở thành động lực đổi mới; ngược lại sẽ chịu thua lỗ, thậm chí phá sản. Mặt khác, EU quy định khá nghiêm ngặt đối với hàng nhập khẩu, thường áp dụng rào cản kỹ thuật (đã sử dụng “thẻ vàng” đối với hàng thủy sản của nước ta), luật chống bán phá giá để hạn chế tốc độ tăng trưởng hàng nhập khẩu từ một nước. Đối với một số sản phẩm xuất khẩu là thế mạnh của mình, EU đòi hỏi đối tác cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ phương thức thức trợ giá của Chính phủ. EU đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện nghiêm túc quy định về xuất xứ sản phẩm để được hưởng thuế ưu đãi và đây là vấn đề đã từng xảy ra đối với một số sản phẩm như thép, hàng may mặc Việt Nam.
Cơ hội nào cho xuất khẩu tỉnh Phú Thọ
Trên địa bàn tỉnh hiện có 235 doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện thông quan hàng hóa tại Hải quan Phú Thọ chiếm 85%. Giai đoạn 2016 - 2019, giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng bình quân 21%. Riêng trong năm 2019, giá trị xuất khẩu đạt gần 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2018, giá trị nhập khẩu đạt hơn 1,8 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm 2018. Chỉ tiêu giá trị kim ngạch xuất khẩu đã về đích trước 02 năm so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ tỉnh đề ra (đến năm 2020 là 1.300 triệu USD). Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu gồm: hàng dệt; điện thoại và linh kiện điện thoại; hàng điện tử; sản phẩm Plastics các loại; giầy dép; chè các loại;… với các thị trường xuất khẩu chủ yếu là: Mỹ (25,9% tổng kim ngạch xuất khẩu); Hàn Quốc (18,4%) và Trung Quốc (37,6%). Như vậy, thị trường Châu Âu vẫn là thị trường tiềm năng đối với hoạt động xuất khẩu của tỉnh khi chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Thực tế cho thấy, hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn tỉnh còn thiếu vững chắc, chưa xứng với tiềm năng. Tổng giá trị sản phẩm hàng hóa xuất khẩu của tỉnh chưa cao so với một số tỉnh lân cận; chưa có doanh nghiệp tập đoàn kinh tế lớn đủ sức làm thay đổi đột biến giá trị kim ngạch xuất khẩu; mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng gia công, sản phẩm chưa hoàn thiện nên giá trị xuất khẩu thấp. Bên cạnh đó, sản xuất sản phẩm xuất khẩu còn manh mún, chưa tạo được vùng chuyên canh, có số lượng sản phẩm đủ lớn để hình thành thị trường xuất khẩu; chất lượng sản phẩm xuất khẩu chưa đạt tiêu chuẩn, nhất là khi các hiệp định FTA có hiệu lực; việc xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa chưa được quan tâm đúng mức. Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng để nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất khó khăn, dẫn tới công tác tham mưu giải quyết các vướng mắc cho doanh nghiệp còn chậm.
Do đó, để có thể tận dụng được cơ hội lớn do các FTA mang lại, đặc biệt là EVFTA, tiếp cận được với thị trường xuất khẩu rộng lớn nhưng đầy khó tính này, giải pháp không nằm ngoài sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền các các cấp và doanh nghiệp.
Về phía doanh nghiệp - nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định trong việc tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển sản xuất, chuyển đổi công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm,… Doanh nghiệp cũng cần thường xuyên cập nhập thông tin về chính sách xuất, nhập khẩu của Nhà nước; chủ động, tăng cường tìm kiếm thị trường xuất khẩu đối với các hàng hóa của doanh nghiệp; tích cực cải tiến mẫu mã, tăng chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu để đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng và đáp ứng về chất lượng đối với nước nhập khẩu, tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị, từ đó nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Về phía Nhà nước, cần tiếp tục đẩy nhanh thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; Làm tốt công tác dự báo tình hình thị trường xuất nhập khẩu trong nước, thế giới, phục vụ công tác tham mưu lãnh chỉ đạo của ngành, của địa phương đối với doanh nghiệp; Tăng cường các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thâm nhập về các thị trường xuất khẩu tiềm năng, cập nhật thông tin về các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, trong đó có EVFTA, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật; Tích cực triển khai công tác xúc tiến thương mại thông qua các hoạt động tổ chức hội chợ, triển lãm chuyên ngành, hoạt động giao thương xúc tiến các ngành hàng xuất khẩu có tiềm năng nhằm củng cố, phát triển thị trường xuất khẩu truyền thống, tiềm năng và khai thác thị trường xuất khẩu mới; Tiếp tục xem xét hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động sản xuất hàng xuất khẩu; hỗ trợ tìm kiếm thị trường xuất khẩu khi doanh nghiệp có nhu cầu; Tăng cường kiểm tra, nắm bắt, xử lý các gian lận thương mại trong sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu;…
Sau khi EVFTA được ký kết, cũng như các địa phương khác, hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh Phú Thọ có thêm nhiều cơ hội nhưng vẫn còn rất nan giải để các sản phẩm của tỉnh tiếp cận được với thị trường này. Vì vậy, địa phương, doanh nghiệp cần phải chuẩn bị kĩ lưỡng, đưa ra các kế hoạch hành động cụ thể để có thể tận dụng được những ưu đãi và lợi thế từ hiệp định này, mở rộng hoạt động xuất khẩu, trong đó, chất lượng sản phẩm phải là cánh cửa để hàng hóa của tỉnh bước ra thị trường EU và thế giới./.
Trần Quyết Chiến