Kinh tế thế giới tháng 2/2020
Fed có khả năng cắt giảm lãi suất trong năm 2020 do những diễn biến phức tạp của dịch corona. Trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Corona đang diễn biến phức tạp, các nhà đầu tư đang theo dõi từng hành động của các Ngân hàng Trung ương trên thế giới, đặc biệt là tại các nền kinh tế lớn nhằm xác định liệu các cơ quan này có tiến hành các biện pháp kích thích kinh tế hay không. Theo ý kiến của một số nhà phân tích, trong trường hợp tình hình dịch bệnh diễn biến theo chiều hướng xấu đi, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) có thể tiến hành cắt giảm lãi suất nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Dĩ nhiên, thời điểm và mức độ cắt giảm còn phụ thuộc vào khả năng kiểm soát dịch bệnh của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh Hoa Kỳ mới tiến hành các biện pháp cắt giảm lãi suất đến ba lần trong năm 2019, Fed được cho là sẽ có những bước đi thận trọng đối với các biện pháp này.
Ngày 10/2, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã “bơm” 22 tỷ đô la Mỹ nhằm tăng tính thanh khoản tại thị trường chứng khoán nước này trong bối cảnh tình hình kinh tế nước này bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại do diễn biến phức tạp của dịch bệnh. Nhận định trước hành động trên, một số chuyên gia tin rằng Trung Quốc có ít dư địa để tiến hành các biện pháp kích thích kinh tế như trên, cũng như tỏ ra hoài nghi về tính hiệu quả của chính sách trên căn cứ trên tỉ lệ nợ công của Trung Quốc hiện nay.
Với tình hình hiện tại, Trung Quốc nhiều khả năng phải đối mặt với “hiệu ứng domino” trong lĩnh vực kinh tế. Theo báo cáo của Tập đoàn Goldman Sachs, trong trường hợp tình hình dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp như hiện nay, tăng trưởng GDP của Trung Quốc có thể giảm xuống mức 5,5%, thậm chí, có thể rơi xuống mức 3%. Và trong bối cảnh đó, Trung Quốc khó có thể đạt được những cam kết với Mỹ (về việc thu mua hàng hoá nông sản) trong khuôn khổ Thoả thuận Thương mại giai đoạn 1, dẫn đến việc gia tăng các biện pháp thuế quan từ phía Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ tuyên bố áp thuế máy bay EU. Ngày 14/2, Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố nước này có thể tăng thuế đối với sản phẩm máy bay nhập khẩu từ Liên minh châu Âu (EU) từ 10% lên 15% nhằm tạo thêm áp lực lên Brussels khi tổ chức này tiến hành trợ giá sản xuất máy bay trong 16 năm. Ngoài ra, đại diện chính phủ Hoa Kỳ cũng cho biết nước này sẵn sàng tiến hành các cuộc đàm phán với phía EU về vấn đề nêu trên, đồng thời cũng có thể cân nhắc tạm hoãn hành động trên. Mức thuế này dự kiến có hiệu lực vào ngày 18/3. Ngoài ra, trong một tuyên bố vào ngày 14/2, Văn phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR) cho biết Hoa Kỳ sẽ tạm hoãn việc áp thuế 25% lên các sản phẩm phô mai, rượu vang và một số sản phẩm khác xuất xứ từ EU.
Các tuyên bố về áp thuế hiện nay được truyền đi trong bối cảnh Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vừa tiến hành ký kết Thoả thuận Thương mại giai đoạn 1 với Trung Quốc, tạo điều kiện cho ông “rảnh tay” để hướng sự chú ý tới quan hệ thương mại trị giá 1 nghìn tỷ USD Hoa Kỳ - EU. Những tuyên bố này được coi là nguy cơ tiềm tàng, châm ngòi cho một cuộc chiến thương mại khác. Về phía EU, các quan chức của Tổ chức này cho biết họ mong muốn có một cuộc đàm phán với Washington về vấn đề thương mại, tuy nhiên họ sẽ không để Hoa Kỳ lấn át trong các cuộc đàm phán.
Tuyên bố này dĩ nhiên vấp phải sự phản đối từ phía các công ty, hội đoàn và nhóm doanh nghiệp khác nhau với điểm chung là họ tin rằng hành động này của phía Hoa Kỳ có thể gây tổn hại đến các hoạt động kinh tế - thương mại của cả EU và Hoa Kỳ. Hãng sản xuất máy bay Airbus của châu Âu cho biết bước đi này từ phía Washington có thể gây ảnh hưởng đến các hãng máy bay của Mỹ do một số hãng đang phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt máy bay và mối quan hệ bất ổn giữa Hoa Kỳ - EU trong vấn đề thương mại. Hãng cũng tuyên bố sẽ tiếp tục thoả thuận với các khách hàng Hoa Kỳ nhằm giảm thiểu thiệt hại xuống mức thấp nhất có thể trong trường hợp Hoa Kỳ áp thuế. Hãng sản xuất máy bay Boeing của Hoa Kỳ cho biết đang tích cực làm việc với Chính phủ nhằm đưa ra các biện pháp phù hợp với các quy định của WTO.
Hiệp hội Bán buôn Rượu Hoa Kỳ cho biết họ vẫn cực lực phản đối việc áp thuế lên các sản phẩm rượu của châu Âu (mặc dù các hàng rào thuế quan này hiện chưa được áp dụng) do các biện pháp thuế quan này gây ảnh hưởng đến lao động làm việc trong lĩnh vực này, các công ty sản xuất và người tiêu dùng của cả hai bên. Theo kết quả một cuộc nghiên cứu cho thấy, 36.000 lao động sẽ bị mất việc trong trường hợp Hoa Kỳ áp mức thuế suất 25% lên các sản phẩm rượu đến từ EU. Ngoài ra, theo số liệu của Chính phủ Hoa Kỳ, các chính sách thương mại mang màu sắc bảo hộ ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu rượu của Hoa Kỳ. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu rượu của Hoa Kỳ sang thị trường EU giảm 27% từ năm 2019 so với năm 2018 và kim ngạch xuất khẩu whiskey toàn cầu đã giảm 16% trong cùng thời điểm nêu trên.
Kinh tế Trung Quốc bị gián đoạn bởi diễn biến phức tạp của virus. Theo thông lệ, chỉ hai tuần sau khi kết thúc Tết Âm Lịch, người lao động Trung Quốc sẽ trở lại làm việc; các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh của nước này cũng bắt đầu mở cửa trở lại. Tuy nhiên, tình hình không mấy lạc quan và những diễn biến phức tạp của dịch bệnh do virus Corona gây ra như hiện nay khiến cho các hoạt động kinh tế bị gián đoạn. Chủng virus Corona mới bắt đầu nhận được sự quan tâm của Chính quyền Trung ương Trung Quốc cũng như của toàn thế giới sau khi cướp đi sinh mạng của hơn 1.300 người tại Trung Quốc.
Trước tình hình nêu trên, hơn một nửa các tỉnh tại Trung Quốc quyết định lùi thời gian quay lại làm việc từ tuần đầu tiên của Tháng Hai sang sớm nhất là tuần thứ hai của tháng nhằm hạn chế sự lây lan của virus. Nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh tư nhân vẫn do dự về việc hoạt động trở lại ở thời điểm hiện tại. Một số chính quyền địa phương thậm chí còn tiến hành các biện pháp nghiêm ngặt như cấm cư dân đi đến những vùng có dịch; tiến hành cách ly 2 tuần đối với cư dân trở về từ các địa phương khác, đặc biệt là các địa phương trong vùng dịch.
Đối với một số hãng công nghệ cao như trường hợp của Tập đoàn Tencent tại Thâm Quyến, lãnh đạo công ty đã cho phép người lao động được làm việc tại nhà cho đến ngày 21/2. Tuy nhiên, không phải ngành, lĩnh vực kinh doanh, sản xuất nào cũng có thể tiếp tục duy trì công việc kinh doanh trong bối cảnh hiện tại: theo số liệu được công bố bởi Ngân hàng Đầu tư Morgan Stanley, lượng than tiêu thụ thường nhật của sáu tập đoàn sản xuất năng lượng lớn nhất Trung Quốc đã giảm 42,2% so với thời điểm trước Tết Nguyên Đán; theo số liệu của Ủy ban Cải cách và Phát triển Trung Quốc, hiện mới chỉ có 57,8% lượng công việc tại các mỏ than của Trung Quốc bắt đầu được khởi động lại; hay theo số liệu của Phần mềm Bắc Đẩu - “Google map” tại Trung Quốc, lượng lao động quay trở lại các thành phố lớn của Trung Quốc giảm 75% so với cùng kỳ năm trước.
Một vài số liệu trên cho thấy sức ảnh hưởng của chủng virus Corona đối với nền kinh tế Trung Quốc lớn đến thế nào. Thậm chí, theo một số chuyên gia, nếu tình hình kiểm soát dịch bệnh không được cải thiện, tăng trưởng GDP của nước này có thể rơi xuống mức 5,5%, thậm chí thấp nhất là 3% vào năm 2020 và hơn một nửa trong số các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh sẽ buộc phải đóng cửa hoặc tuyên bố phá sản trong 03 tháng tới nếu tình hình kinh doanh tiếp tục như thời điểm hiện tại.
Tình hình dịch bệnh khiến các công ty nước ngoài chuyển nhà máy sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Hiện nay, nhiều chuỗi cung ứng tại Trung Quốc đang bị tạm dừng sản xuất hoặc gặp nhiều gián đoạn do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp. Điều này khiến các tập đoàn đa quốc gia đẩy nhanh việc dịch chuyển các nhà máy sản xuất ra khỏi Trung Quốc tới một số thị trường khác, nhất là trong bối cảnh lương cơ bản tại Trung Quốc ngày càng tăng.
Xu hướng này hiện đã bắt đầu xuất hiện đối với trường hợp một số tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới. Ví dụ như: Tập đoàn sản xuất thiết bị xây dựng Komatsu quyết định dịch chuyển một phần các cơ sở sản xuất thép phục vụ cho việc sản xuất khung và vành lốp ô tô đến Nhật Bản và Việt Nam; Tập đoàn Công nghiệp Nhật Bản Daikin đang cân nhắc việc chuyển các dây chuyền điều hoà nhiệt độ từ tỉnh Hồ Bắc - nơi vẫn tiếp tục bị phong tỏa sang Malaysia, Nhật Bản hoặc Thái Lan hoặc một số các quốc gia có điều kiện tương tự. Giám đốc điều hành của hãng cho biết hãng buộc phải làm điều này để giảm thiểu tối đa thiệt hại. Tuy nhiên, không phải lĩnh vực nào cũng có thể tiến hành chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc bởi có một số sản phẩm chỉ có thể sản xuất tại đây, như việc Tập đoàn sản xuất ô tô Fiat Chrysler sẽ phải tạm dừng các dây chuyền sản xuất tại Serbia do sự thiếu hụt một số linh kiện điện tử được sản xuất tại Trung Quốc. Đây cũng là trường hợp đầu tiên ghi nhận một nhà máy đặt tại châu Âu bị gián đoạn bởi tình hình dịch bệnh tại Đại Lục và có lẽ đây sẽ không phải là trường hợp duy nhất.
Theo ông Edward Alden, thành viên cấp cao, chuyên về lĩnh vực thương mại của Hội đồng Quan hệ đối ngoại cho biết, có lẽ dịch bệnh hiện tại sẽ thay đổi hoàn toàn chuỗi cung ứng tại châu Á, thay vì tạm thời như một số dự đoán trước đây. Trước đây, do hiệu lực của Thoả thuận Thương mại giai đoạn 1 với Hoa Kỳ, (mà trong đó Trung Quốc thất bại trong việc đàm phán, đi đến thống nhất các điều khoản nhằm loại bỏ hầu hết các hàng rào thuế quan của Hoa Kỳ áp lên hàng hoá nước này, khiến chi phí sản xuất đắt đỏ hơn) một số tập đoàn đa quốc gia đã cân nhắc việc chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Thì với tình hình hiện tại, làn sóng này có thể sẽ được đẩy nhanh hơn nữa.
Theo một số chuyên gia khác, trước tình hình hiện tại, trong bối cảnh sau khi tình hình dịch bệnh được khống chế, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ phá giá đồng Nhân dân tệ nhằm khuyến khích các nhà đầu tư quay lại. Hành động này được cho có nhiều khả năng xảy ra bởi suy cho cùng, vấn đề chi phí sản xuất, chi phí đầu vào và chi phí vận tải là các yếu tố chính thu hút các nhà đầu tư. Tuy nhiên, điều này vô hình chung vi phạm các điều khoản của Thoả thuận Thương mại giai đoạn 1, vì thế thị hiếu về Trung Quốc khó lòng có thể được khôi phục như trước đây.
Phố Wall: Xu hướng đầu tư vào các quốc gia đang phát triển. Tại Phố Wall, các nhà đầu tư đang hướng sự chú ý vào các quốc gia đang phát triển, ngay cả trong bối cảnh dịch virus Corona gây ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Hiện nay, đã có đến 730 triệu USD được đầu tư vào các quỹ hoán đổi danh mục tại các quốc gia đang phát triển trong tuần vừa qua sau 2 tuần liên tiếp chứng kiến dòng tiền đầu tư nước ngoài chảy ra khỏi các thị trường trên, cũng với sự đi xuống của thị trường chứng khoán và giá trị tiền tệ. Cụ thể, là Chỉ số MSCI tại các quốc gia đang phát triển (MSCIEF) đo tình hình chứng khoán tại các quốc gia này đã tăng 4% sau những phiên giảm từ đầu năm 2020. Một chỉ số khác, phản ánh tình trạng các đồng nội tệ từ các quốc gia châu Á cho tới Mỹ Latin, thể hiện tình hình đồng nội tệ của các quốc gia đang phát triển (MIEM00000CUS) vẫn còn thấp.
Sở dĩ các nhà đầu tư tại Phố Wall hiện có hành động trên ngay cả trong bối cảnh tính đến ngày 14/1, dịch viêm phổi cấp gây ra bởi chủng Virus Corona đã khiến 1.380 người chết và 63.581 người được xác định dương tính bởi họ tin rằng những ảnh hưởng về kinh tế của dịch bệnh này sẽ không quá to lớn. Thêm vào đó, trước khi dịch bệnh bùng phát, các thị trường chứng khoán tại các quốc gia đang phát triển có xu hướng tăng trưởng đồng đều, bắt nguồn phản ứng tích cực của nhà đầu tư với những dự báo về tình hình lạc quan của kinh tế thế giới và việc ký kết Thoả thuận giai đoạn một giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Tuy nhiên, một số nhà đầu tư và nhà phân tích vẫn tỏ ra hoài nghi về mức độ ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung và kinh tế Trung Quốc nói riêng. Một số cá nhân cho rằng, tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Quốc sẽ rơi xuống mức từ 4% đến 5% từ mức 6% ở thời điểm hiện tại. Dĩ nhiên, mức độ ảnh hưởng sẽ còn phụ thuộc vào thời điểm Trung Quốc và các quốc gia trên thế giới tìm ra những biện pháp nhằm giải quyết dứt điểm tình hình dịch bệnh hiện tại.
Thế giới phải chi 8 tỷ USD mỗi ngày do vấn đề ô nhiễm không khí. Theo một báo cáo được công bố bởi tổ chức Hoà bình Xanh, thế giới tiêu tốn 8 tỷ USD mỗi ngày để giải quyết những vấn đề liên quan đến ô nhiễm không khí bắt nguồn từ việc đốt năng lượng hoá thạch. Con số này tương đương với 3,3% tổng GDP toàn cầu (khoảng 2,9 nghìn tỷ USD một năm). Trung Quốc, Hoa Kỳ và Ấn Độ là các quốc gia phải chi nhiều nhất cho vấn đề ô nhiễm không khí với chi phí lần lượt là 900 tỷ USD, 600 tỷ USD và 150 tỷ USD hàng năm.
Theo nhà vận động môi trường Minwoo Son, hiện đang làm việc tại Tổ chức Hoà bình Xanh khu vực Đông Bắc Á, mỗi năm, ô nhiễm không khí bắt nguồn từ những hoạt động sử dụng nhiên liệu hoá thạch lấy đi mạng sống của hàng triệu người, tăng nguy cơ mắc các bệnh như đột quỵ, ung thư phổi, và hen phế quản. Và loài người có thể khắc phục vấn đề hiện tại bằng cách dần chuyển đổi sang việc sử dụng năng lượng tái tạo, hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân. Theo thống kê của tổ chức này, việc sử dụng năng lượng hoá thạch vào cuộc sống hàng ngày cướp đi sinh mạng của khoảng 4,5 triệu người trên toàn thế giới một năm, khoảng 40.000 trẻ nhỏ dưới 5 tuổi.
Ngoài ra, việc sử dụng năng lượng tái tạo cũng giúp đảo ngược phần nào hay ít nhất làm chậm quá trình biến đổi khí hậu. Với mức độ khí thải như hiện nay, nhiệt độ Trái Đất được dự báo sẽ tăng 2°C vào năm 2050, khiến GDP toàn cầu giảm từ 2,5% đến 7,5% do sự sụt giảm chất lượng sức khỏe lao động./.
Kinh tế Việt Nam
Tăng trưởng GDP dự kiến đạt 6,25%. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tại phiên họp Thường trực Chính phủ họp bàn về đánh giá tác động của tình hình dịch bệnh do chủng mới của virus Corona (COVID-19), cập nhật kịch bản tăng trưởng năm 2020 và các giải pháp chỉ đạo, điều hành để thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2020, trong trường hợp khống chế được dịch do virus Corona trong Quý I/2020, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2020 dự kiến đạt 6,25%, giảm 0,55 điểm phần trăm so với Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ. Trong đó, quý I tăng 4,52%; quý II tăng 6,08%; quý III tăng 6,92% và quý IV tăng 6,81%.
Trường hợp dịch được khống chế trong Quý II thì tăng trưởng được dự báo là 5,96% giảm 0,84 điểm phần trăm so với Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ và giảm 0,29 điểm phần trăm so với kịch bản khống chế được dịch trong Quý I; trong đó, quý I tăng 4,52%; quý II tăng 5,1%; quý III tăng 6,70% và quý IV tăng 6,81%.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các tổ chức quốc tế đều đánh giá kinh tế thế giới năm 2020 tiếp tục xu hướng giảm, cộng với tác động từ dịch sẽ làm suy giảm nhanh hơn. Dịch đã ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu, gây gián đoạn chuỗi cung ứng nhiều sản phẩm hàng hóa của thế giới, đình trệ trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, suy giảm nhu cầu tạm thời từ Trung Quốc đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cũng ảnh hưởng tới tăng trưởng của khu vực và toàn cầu. Việt Nam có độ mở của nền kinh tế lớn và có đường biên giới dài với Trung Quốc thì chắc chắn cũng sẽ chịu những ảnh hưởng không nhỏ.
Các ngành được đánh giá bị ảnh hưởng gồm: nông, lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp điện - điện tử, da giày, dệt may. Hoạt động đầu tư cũng bị tác động khi nhà đầu tư mới dừng tìm kiếm cơ hội đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các dự án đã đầu tư có khả năng sẽ hoãn lại việc tăng vốn đầu tư.
Ứng phó tác động của dịch bệnh nCoV đối với phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01/2020 trong đó nêu rõ: Chính phủ thống nhất quan điểm chỉ đạo, điều hành là vừa thực hiện quyết liệt các giải pháp phòng, chống dịch bệnh nCoV, vừa tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, nỗ lực phấn đấu cao nhất để đạt được mục tiêu tăng trưởng và các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đề ra.
Chính phủ yêu cầu từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình, đánh giá và lượng hóa các tác động của dịch bệnh nCoV đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh và tăng trưởng của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa bàn, nhất là xuất nhập khẩu, nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, vận tải, dịch vụ để cập nhật kịch bản tăng trưởng theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 733/VPCP-KTTH ngày 03/02/2020; thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh, nỗ lực phấn đấu đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đề ra.
Về một số nhiệm vụ cụ thể, Chính phủ giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế và các địa phương có cửa khẩu tăng cường đàm phán với các đối tác, kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, nhất là hàng nông sản, các nguyên liệu cho hoạt động sản xuất vật tư, thiết bị y tế phục vụ phòng, chống dịch; chủ động tìm kiếm thị trường mới, thúc đẩy tiêu thụ, chế biến trong nước các mặt hàng nông thủy sản, trái cây xuất khẩu giảm sút do tác động của dịch bệnh nCoV; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ động phối hợp với Bộ Công Thương đẩy mạnh công tác xúc tiến, phát triển thị trường trọng điểm, tiềm năng và thị trường ngách; chủ trì, phối hợp với các địa phương bị thiệt hại bởi thiên tai tổng hợp báo cáo, gửi Bộ Tài chính để hỗ trợ kinh phí cho người dân theo quy định.
Đầu năm 2020, nhập siêu đang quay trở lại. Trong tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 38,1 tỷ USD, giảm 12,9% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính cả nước nhập siêu 100 triệu USD. Trong đó, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 19 tỷ USD, giảm 15,8% so với tháng 12/2019; khu vực kinh tế trong nước đạt 6,31 tỷ USD, giảm 23,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 12,69 tỷ USD, giảm 11,6%; so với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 1/2020 giảm 14,3%. Trong khi đó, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 19,1 tỷ USD, giảm 14,4% so với tháng 12/2019; trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,7 tỷ USD, giảm 17,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,4 tỷ USD, giảm 11,3%.
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, do ảnh hưởng của dịch viêm đường hô hấp cấp do virus Corona gây ra, kim ngạch xuất khẩu của cả nước dự báo sẽ giảm mạnh trong quý I. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu quý I ước đạt 46,5 tỷ USD, giảm 21% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu các mặt hàng nông sản và nông sản chế biến, hàng lâm sản giảm khoảng trên 29%, hàng thủy sản giảm 38%, hàng dệt may giảm 22%, hàng giày dép giảm 17%, hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 8%, hàng điện thoại các loại và linh kiện giảm 27%. Riêng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc quý I ước đạt 5,6 tỷ USD, giảm 25% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó, các mặt hàng nông sản và nông sản chế biến, hàng lâm sản giảm khoảng 30%, hàng thủy sản giảm 33%...
Thu hút vốn FDI tháng 1 tăng 179%. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/1/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 5,3 tỷ USD, tăng 179,5% so với cùng kỳ năm 2019.
Trong đó có 258 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 4,5 tỷ USD, tăng 14,2% về số dự án và tăng 454,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 77 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 334 triệu USD, giảm 1,9%; 884 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 534,8 triệu USD, giảm 29,8%.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tháng 1 ước tính đạt 1,6 tỷ USD, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam mang đến cơ hội đầu tư gần 46 tỷ USD vào khu vực tư nhân. Theo Báo cáo cơ hội 2030: Bản đồ Đầu tư theo các Mục tiêu phát triển bền vững do Ngân hàng Standard Chartered phát hành, khu vực tư nhân hiện đang đứng trước cơ hội đầu tư 9.668 tỷ USD vào các thị trường mới nổi nhằm thúc đẩy quá trình hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Trong đó, Việt Nam mang đến cơ hội đầu tư 45,8 tỷ USD. Tại Việt Nam, những cơ hội đầu tư có tiềm năng lớn nhất theo định hướng Mục tiêu phát triển bền vững tập trung ở lĩnh vực hạ tầng giao thông và phổ cập kết nối số, hướng tới thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực công nghiệp, sáng tạo và hạ tầng.
Ông Nirukt Sapru, Tổng Giám đốc Việt Nam và nhóm 5 nước ASEAN và Nam Á của Ngân hàng Standard Chartered chia sẻ, Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á và là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Đây là kết quả của hàng loạt các chính sách và nỗ lực cải cách đã và đang được triển khai. Chính phủ Việt Nam cam kết thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững và đang tích cực lồng ghép các Mục tiêu phát triển bền Vững vào những chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Báo cáo cơ hội 2030 của Ngân hàng Standard Chartered được xây dựng nhằm đưa ra định hướng quan trọng về những cơ hội đầu tư theo Mục tiêu phát triển bền vững, giúp các nhà đầu tư đến từ lĩnh vực tư nhân đang tìm kiếm cơ hội tạo ra những tác động đầu tư tích cực và cải thiện cuộc sống của hàng triệu người trong thập kỷ tới.
Nghị viện Châu Âu phê chuẩn hiệp định thương mại tự do với Việt Nam. Ngày 12/2, tại Strasbourg (Pháp), Nghị viện châu Âu đã phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do giữa EU và Việt Nam (EVFTA) với tỉ lệ bỏ phiếu là: 401 ủng hộ, 192 chống và 40 phiếu trắng. Hiệp định bảo hộ đầu tư giữa EU và Việt Nam (EVIPA) cũng được Nghị viện châu Âu phê chuẩn với tỷ lệ bỏ phiếu: 407 ủng hộ, 188 chống và 53 phiếu trắng.
Sau cuộc bỏ phiếu, Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế của Nghị viện EU, ông Bernd Lange, tuyên bố: “Lịch sử chứng minh cô lập không thay đổi một quốc gia. Vì vậy Nghị viện bỏ phiếu ủng hộ thỏa thuận thương mại với Việt Nam. Đây là lý do vì sao Nghị viện EU bỏ phiếu đồng ý với thỏa thuận thương mại này, và cùng nó, chúng ta đẩy mạnh vai trò của EU tại Việt Nam và khu vực, đồng thời đảm bảo rằng tiếng nói của chúng ta có sức mạnh hơn trước”.
Về thủ tục nội bộ của EU, sau khi EVFTA được Nghị viện châu Âu phê chuẩn, còn phải được Hội đồng châu Âu phê duyệt để chính thức có hiệu lực. Còn EVIPA cần một lộ trình dài hơn, phải được phê chuẩn của cả Nghị viện châu Âu lẫn nghị viện của tất cả 27 nước thành viên EU trước khi có hiệu lực chính thức. Về phía Việt Nam, EVFTA sẽ được trình lên Quốc hội thông qua vào kỳ họp tháng 5 tới. Nếu Quốc hội thông qua vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6, thì EVFTA có thể có hiệu lực ngay từ đầu tháng 7, sau khi hai bên thông báo cho nhau về việc đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn.
Đánh giá về tác động của EVFTA với Việt Nam, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhận định, đó là một bước tiến, cũng là một gợi ý, cho thấy quá trình hội nhập của Việt Nam ngày càng được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đẩy mạnh quá trình liên kết với nhau thành các doanh nghiệp đủ tầm cỡ, hiện đại; mạnh dạn tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Hiệp định cũng bao gồm các quy định mạnh mẽ, toàn diện và ràng buộc, qua đó giúp giải quyết một số thách thức mà Việt Nam phải đối mặt, trước hết là về quyền và điều kiện lao động.
Mỹ đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước đang phát triển. Ngày 10/2, Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) công bố danh sách cập nhật về 44 quốc gia kém phát triển nhất và 35 quốc gia đang phát triển, được hưởng ưu đãi biên độ phá giá không đáng kể (de minimus) và các tiêu chuẩn nhập khẩu không đáng kể theo Luật Thuế đối kháng chống trợ cấp. Theo USTR, tiêu chí để một quốc gia được hưởng ưu đãi 2% de mininis gồm: (i) thu nhập bình quân đầu người dưới 12.375 USD/năm; (ii) tỷ lệ thị phần với thương mại toàn cầu dưới 0,5%; (iii) là thành viên của OECD hoặc đang đăng ký làm thành viên, thành viên của EU hoặc nhóm G20.
Việt Nam (cùng với Brazil, Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia và Malaysia) được Mỹ xác định là có kim ngạch thương mại chiếm hơn 0,5% thương mại toàn cầu (khoảng 1,3%) do đó không được hưởng ưu đãi 2% de minimis, mặc dù theo Ngân hàng Thế giới, thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người của Việt Nam chỉ đạt hơn 2.300 USD/năm.
USTR cho biết quyết định sửa đổi phương pháp đánh giá quốc gia đang phát triển của mình nhằm phục vụ các cuộc điều tra về thuế chống bán phá giá là cần thiết bởi vì các quy định có từ năm 1988 của Mỹ hiện đã lỗi thời. Diễn biến này đánh dấu một sự chuyển hướng đáng chú ý từ chính sách thương mại của Mỹ trong 2 thập kỷ qua liên quan đến các quốc gia đang phát triển có thể dẫn đến các hình phạt nghiêm khắc hơn đối với một số nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới. Động thái này cũng phản ánh sự bất bình của Chính quyền Trump đối với việc các nền kinh tế lớn như Trung Quốc và Ấn Độ được phép nhận các lợi ích ưu đãi về thương mại như là các nước đang phát triển tại Tổ chức Thương mại Thế giới.
Ngân hàng Nhà nước trở thành thành viên của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế. Ngày 14/1, Hội đồng Quản trị của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) đã ra thông cáo chính thức mời Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trở thành thành viên, cùng với Ngân hàng trung ương các nước Morocco và Kuwait, nâng tổng số thành viên của Ngân hàng từ 60 lên 63. Thông cáo cho biết BIS sẽ mở rộng số lượng thành viên gồm các ngân hàng trung ương và tăng cường cộng tác với vai trò BIS là một diễn đàn đóng góp cho hợp tác quốc tế, đồng thời là một định chế của các ngân hàng trung ương và tổ chức tài chính khác.
Trên thực tế, việc kết nạp thành viên mới của BIS là rất hạn chế, trung bình sau từ 5 - 10 năm mới kết nạp thêm thành viên và tiêu chí lựa chọn kết nạp thành viên của BIS là rất nghiêm ngặt, dựa trên quy mô phát triển kinh tế, trình độ quản trị ngân hàng trung ương. Vì vậy, việc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) mời Ngân hàng Nhà nước trở thành thành viên của BIS thể hiện sự công nhận các thành quả phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua cũng như những kết quả tích cực của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng.
Việc trở thành thành viên của BIS cũng sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng tiếp cận các nguyên tắc, chuẩn mực cao nhất của hệ thống tài chính toàn cầu, góp phần đẩy nhanh việc hội nhập quốc tế của hệ thống tài chính ngân hàng trong nước, giúp củng cố, tăng cường năng lực và sức cạnh tranh của hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam cũng như của nền kinh tế; Ngân hàng Nhà nước nói riêng và Việt Nam nói chung được tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng các chuẩn mực, nguyên tắc, tiêu chí, thông lệ hoạt động tài chính tiền tệ, ngân hàng trên thế giới, tạo cơ hội để xử lý các vấn đề đặc thù của nền kinh tế và hệ thống tài chính ngân hàng trong nước nhằm củng cố ổn định tài chính và tăng trưởng bền vững./.
tổng hợp