Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII có ý nghĩa to lớn, định hướng cho toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục hạn chế, khuyết điểm; giữ vững, ổn định chính trị; tăng cường quốc phòng, an ninh; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; mở rộng quan hệ đối ngoại; khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững; xây dựng nền tảng đưa Phú Thọ cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp.
Năm năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, còn có nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình chính trị thế giới, khu vực, nhất là tình hình trên Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Đối với nước ta, tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho mặt trái của chính sách kích cầu và những yếu kém nội tại của nền kinh tế bộc lộ nặng nề hơn; lạm phát những năm đầu nhiệm kỳ tăng cao, kinh tế vĩ mô không ổn định, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất. Những khó khăn, thách thức trong nước và thế giới, cùng với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, năng lực của các thành phần, tổ chức kinh tế trong tỉnh còn hạn chế; vị trí địa kinh tế ít lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư; thiên tai, dịch bệnh xảy ra bất thường gây thiệt hại lớn, những yếu tố đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trong bối cảnh đó, được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương; Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, chủ động, sáng tạo khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đề ra và đạt được những kết quả quan trọng.
Phần thứ nhất
KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XVII (NHIỆM KỲ 2010 - 2015)
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Kinh tế tiếp tục phát triển trong điều kiện gặp nhiều khó khăn, thách thức; đời sống nhân dân được cải thiện, đã sớm thoát khỏi tỉnh nghèo.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân 5 năm đạt 5,85%; trong đó công nghiệp - xây dựng tăng 6,79%, nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng 5,31%, dịch vụ tăng 5,17%. Quy mô của nền kinh tế tăng 86,5% (giá hiện hành), GRDP bình quân đầu người đạt 29,9 triệu đồng (tương đương 1.423 USD), tăng 77,9% so năm 2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh; tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 37,1%, dịch vụ 37,2%, nông lâm nghiệp 25,7%. Tốc độ thu ngân sách bình quân tăng 16%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng 17,5%/năm.
Ba khâu đột phá Nghị quyết Đại hội XVII đề ra được tập trung chỉ đạo.
Khâu đột phá về đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt đạt được kết quả quan trọng, đã tập trung huy động tốt các nguồn lực để đầu tư, xây dựng, hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 67,01 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 7,3%/năm và tăng 2,13 lần so với giai đoạn 2006 - 2010; trong đó vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước 48,6%; dân cư và tư nhân 44,6%; đầu tư trực tiếp nước ngoài 6,8%. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển đột phá, nhất là hệ thống giao thông đối ngoại; trong 5 năm đã tiến hành đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp gần 1.000 km quốc lộ, tỉnh và huyện lộ; hoàn thành 7 cầu lớn (Kim Xuyên, Sông Lô, Ngọc Tháp, Hoàng Cương, Hạc Trì, Đoan Hùng, Đồng Quang); hạ tầng đô thị, nông nghiệp, nông thôn, thông tin truyền thông được tăng cường đầu tư, đưa vào sử dụng nhiều công trình quy mô lớn; cơ bản hoàn thành hạ tầng Khu công nghiệp Thụy Vân và một số cụm công nghiệp; Khu công nghiệp Phú Hà, Cẩm Khê, Trung Hà đã thu hút được nhà đầu tư hạ tầng; tích cực hoàn thiện, nâng cao các tiêu chí đô thị loại I của thành phố Việt Trì, xây dựng thị xã Phú Thọ trở thành thành phố và các công trình thuộc Khu di tích lịch sử Đền Hùng, Quảng trường Hùng Vương, Công viên Văn Lang, Trường Đại học Hùng Vương, các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện, trường lớp học...
Đào tạo nguồn nhân lực đạt được kết quả tích cực. Các cơ sở giáo dục đào tạo, dạy nghề trên địa bàn được củng cố, nâng cấp; mở rộng cơ cấu ngành, nghề đào tạo, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập; kinh phí đầu tư từ ngân sách cho các cơ sở đào tạo, dạy nghề tăng 64,3%, quy mô đào tạo tăng 35,5% so nhiệm kỳ trước; tổng số nhân lực đào tạo mới đạt 179,2 nghìn người (bình quân 35,84 nghìn người/năm). Sớm hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ I và kết quả phổ cập giáo dục trung học cơ sở; số trường chuẩn quốc gia đạt 573/915 trường (tăng 232 trường so với năm 2010). Đội ngũ giáo viên cơ bản đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hoá về chất lượng. Chất lượng giáo dục được nâng lên, nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố có phong trào giáo dục khá của cả nước; tỷ lệ học sinh đỗ đại học và thi chuyển cấp đạt cao. Phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được chú trọng. Giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp tích cực đổi mới theo hướng đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội. Tỷ lệ lao động qua đào tạo và truyền nghề đạt 55%.
Kết cấu hạ tầng du lịch được tăng cường đầu tư; tổng nguồn vốn huy động phát triển du lịch tăng 3,5 lần so với giai đoạn 2006 - 2010, đưa vào khai thác một số dự án thành phần tại các khu du lịch trọng điểm của tỉnh. Các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh, nhất là du lịch văn hóa tâm linh gắn với hai di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đưa vào khai thác, bước đầu phát huy hiệu quả. Lượng khách đến thăm quan, du lịch và thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương hằng năm đạt từ 6 đến 7 triệu lượt; khách lưu trú chiếm 10%; doanh thu dịch vụ du lịch tăng bình quân 17,9%/năm; góp phần đưa giá trị tăng thêm chiếm 4% trong khối các ngành dịch vụ.
Sản xuất nông, lâm nghiệp duy trì tăng trưởng khá, bù đắp sự tăng trưởng thấp của ngành công nghiệp xây dựng, góp phần tăng thu nhập, ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. Quan tâm xây dựng mô hình chăn nuôi bán công nghiệp, sản xuất rau quả an toàn, vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với phát triển nông nghiệp cận đô thị; hình thành mô hình sản xuất hàng hóa theo hướng liên kết, chuỗi giá trị. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất; sản lượng lương thực có hạt tăng 5,2%, đảm bảo an ninh lương thực; bình quân giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện tích đất canh tác và nuôi trồng thủy sản tăng 59,6%. Tập trung chỉ đạo quản lý, bảo vệ rừng, nâng độ che phủ rừng đạt 50,8%. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành có sự chuyển biến tích cực, giá trị tăng thêm bình quân lao động nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 23,4 triệu đồng/người/năm (tăng 94,7% so với năm 2010). Kết cấu hạ tầng nông thôn từng bước được tăng cường gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu ngành nông nghiệp, theo hướng nâng cao giá trị tăng thêm và phát triển bền vững.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được quan tâm chỉ đạo, sớm hoàn thành quy hoạch và đề án xây dựng nông thôn mới cấp xã; phong trào thi đua chung sức xây dựng nông thôn mới đã huy động sức mạnh hệ thống chính trị và nhân dân tích cực tham gia; đến hết năm 2015 có 1 huyện đạt chuẩn, 57 xã (23%) đạt và cơ bản đạt chuẩn nông thôn mới, bình quân 1 xã đạt 12,1 tiêu chí; diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới.
Trong điều kiện gặp nhiều khó khăn, công nghiệp - xây dựng duy trì ổn định, có ngành tăng trưởng khá. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hóa và sức cạnh tranh của sản phẩm, từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập, góp phần tăng giá trị xuất khẩu. Đã hoàn thành đưa vào hoạt động một số dự án có giá trị gia tăng cao, sản xuất các sản phẩm công nghiệp mới, đóng góp lớn vào thu ngân sách Nhà nước. Sản lượng một số sản phẩm chủ lực tăng nhanh. Hoạt động khuyến công bước đầu có hiệu quả; tiểu thủ công nghiệp được chú trọng phát triển.
Các ngành thương mại - dịch vụ phát triển đa dạng, phong phú, thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia. Trình độ công nghệ, chất lượng dịch vụ, hạ tầng thương mại từng bước phát triển và nâng cao; một số trung tâm thương mại, siêu thị được đầu tư xây dựng, đưa vào hoạt động; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân 16,9%/năm. Dịch vụ thương mại, vận tải, kho bãi, tín dụng ngân hàng, bưu chính viễn thông phát triển nhanh. Dịch vụ bảo hiểm, pháp lý, lao động, việc làm được khuyến khích phát triển. Hoạt động xuất, nhập khẩu diễn ra sôi động, tích cực mở rộng thị trường; kim ngạch xuất khẩu năm 2015 ước đạt 762 triệu USD, tăng 2,2 lần so với năm 2010.
Hoạt động tài chính, tín dụng được chú trọng, nâng cao hiệu quả. Triển khai kịp thời các chính sách thuế; chú trọng huy động từ thu tiền sử dụng đất, tăng cường quản lý các nguồn thu và thực hiện nhiều giải pháp để tạo nguồn thu bền vững; tỷ lệ huy động vào ngân sách so với GRDP bình quân đạt 8,9%. Chi ngân sách địa phương được quản lý chặt chẽ, đảm bảo yêu cầu chi thường xuyên, thực hiện các chế độ chính sách và an sinh xã hội.
Công tác quản lý điều hành hoạt động tiền tệ, tín dụng được tăng cường, đáp ứng cơ bản nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các tổ chức tín dụng đã tập trung cho vay phát triển sản xuất, chú trọng các dự án trọng điểm của tỉnh, góp phần phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; nguồn vốn huy động tăng bình quân 20%/năm, dư nợ cho vay tăng bình quân 11%/năm; nợ xấu dưới 3%.
Phát huy mạnh mẽ vai trò của các thành phần kinh tế trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh tiến hành tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh sản phẩm. Khu vực kinh tế Nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp; tiến hành cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp theo quy định. Khu vực kinh tế tập thể được chú trọng, bước đầu phát huy vai trò liên kết cung ứng dịch vụ đầu vào hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển; số hợp tác xã, tổ hợp tác tăng; lợi nhuận bình quân một hợp tác xã tăng 28,6%. Các loại hình doanh nghiệp được khuyến khích phát triển, số doanh nghiệp đăng ký hoạt động tăng 1,5 lần, tổng vốn đăng ký tăng 2,1 lần so với năm 2010. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Hoạt động khoa học công nghệ, công tác quản lý tài nguyên và môi trường được quan tâm chỉ đạo. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đã bám sát vào thực hiện các mục tiêu, chương trình kinh tế xã hội của tỉnh; ưu tiên ứng dụng, đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đời sống. Tăng cường tiềm lực; bước đầu hình thành một số tổ chức, trung tâm, dịch vụ khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao năng lực phục vụ, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Công tác quản lý tài nguyên và môi trường được tăng cường, đã hoàn thành và thực hiện theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020; đẩy mạnh công tác lập hồ sơ địa chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đạt 92,4% tổng diện tích cần cấp). Chỉ đạo quyết liệt để khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên, khoáng sản; tăng cường công tác kiểm tra, xử lý vi phạm, cơ bản giải quyết một số điểm nóng về ô nhiễm môi trường. Quan tâm triển khai thực hiện bảo tồn đa dạng sinh học, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh.
2. Lĩnh vực văn hoá - xã hội đạt nhiều kết quả tích cực; an sinh xã hội được đảm bảo.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng, cơ bản đạt được tiến độ thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về y tế. Hệ thống y tế các tuyến được củng cố, phát triển và hoàn thiện; tăng cường đầu tư hiện đại cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế; số bệnh viện đạt hạng cao tăng. Nhân lực y tế được quan tâm đào tạo, thu hút. Chất lượng khám, chữa bệnh có tiến bộ, ứng dụng nhiều kỹ thuật mới, hiện đại trong chẩn đoán, điều trị; các chỉ số sức khoẻ người dân và chỉ tiêu về số bác sĩ, giường bệnh trên vạn dân, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế cơ bản đạt và vượt so mục tiêu chung cả nước. Giám sát, chủ động phòng chống dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra. Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội về y tế; thực hiện tốt quân dân y kết hợp trong các hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá y tế, khuyến khích phát triển dịch vụ y tế chất lượng cao. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình được củng cố ở các tuyến, cơ bản đáp ứng nhu cầu người dân; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,27%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 14,6%.
Hoạt động văn hoá, thông tin, thể thao có nhiều khởi sắc. Thực hiện tốt công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá dân tộc; xây dựng và bảo vệ thành công hai di sản văn hoá phi vật thể “Hát Xoan Phú Thọ” và “Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” được UNESCO công nhận và vinh danh; góp phần khẳng định, tạo sự lan toả của không gian văn hoá vùng Đất Tổ. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" phát triển sâu rộng, từng bước thấm sâu vào từng gia đình và toàn xã hội. Chú trọng đầu tư các thiết chế văn hoá, thể thao theo hướng xã hội hoá; nhiều công trình hoàn thành, đưa vào sử dụng, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển. Công tác đào tạo vận động viên năng khiếu được quan tâm; thành tích tham gia Hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc lần thứ VIII xếp thứ 7/63 tỉnh, thành trong cả nước.
Hoạt động thông tin, báo chí, văn học nghệ thuật, phát thanh, truyền hình có nhiều tiến bộ; đã kịp thời thông tin, phản ánh, chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; thời lượng phát sóng, số báo phát hành tăng; phát sóng kênh truyền hình Phú Thọ trên vệ tinh, phủ sóng 100% diện tích và dân số.
Công tác giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội; công tác dân tộc, tôn giáo đạt kết quả quan trọng. Chương trình giải quyết việc làm được thực hiện tích cực; hàng năm giải quyết việc làm cho 22,16 nghìn lao động, xuất khẩu lao động 2,5 nghìn người. Quan tâm thực hiện các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo, chính sách đối với người có công; thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân từng bước được nâng lên; tỷ lệ hộ nghèo còn 7,89% (giảm 12,43% so với năm 2010), thoát nghèo bình quân 8,6 nghìn hộ/năm; hoàn thành hỗ trợ trên 15 nghìn hộ nghèo, hộ người có công với cách mạng khó khăn về nhà ở. Triển khai tích cực công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn (đạt 26.567 lao động); công tác dạy nghề bước đầu gắn với giải quyết việc làm, tự tạo việc làm. Thực hiện đầy đủ, đồng bộ, kịp thời các chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hoạt động tôn giáo trên địa bàn được quản lý và tạo điều kiện theo quy định của pháp luật.
3. Công tác quốc phòng, an ninh được tăng cường, giữ vững trật tự an toàn xã hội; công tác nội chính và phòng chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực.
Tập trung lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Tăng cường sức mạnh tổng hợp của thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Chú trọng công tác xây dựng lực lượng vũ trang có sức chiến đấu cao; nêu cao cảnh giác, chủ động nắm chắc tình hình, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Thực hiện tốt diễn tập khu vực phòng thủ, chống khủng bố, ứng phó sự cố hóa chất, phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn, phòng chống cháy rừng. Hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyển quân, giáo dục quốc phòng, an ninh cho các đối tượng; huấn luyện lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ, dự bị động viên, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu.
Tình hình an ninh chính trị ổn định; trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Chủ động nắm chắc, dự báo, kiểm soát tình hình; phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề phức tạp về an ninh trật tự, đảm bảo tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị quan trọng, các mục tiêu trọng điểm trên địa bàn. Tình hình trật tự an toàn xã hội có sự chuyển biến rõ rệt, đã kiềm chế sự gia tăng của tội phạm. Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử được nâng lên; tỷ lệ điều tra, khám phá án đạt 81% (trong đó án đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 95%). Tăng cường kiểm tra, xử lý quyết liệt, lập lại kỷ cương, trật tự trong hoạt động khai thác khoáng sản; kiềm chế và làm giảm số vụ, số người chết do tai nạn giao thông. Quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy, hỗ trợ đầu tư, nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan tư pháp. Công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện giám sát hoạt động tư pháp được tiến hành thường xuyên. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; công tác tiếp công dân, giải quyết đơn khiếu nại, đơn tố cáo được đổi mới, đã giải quyết dứt điểm nhiều đơn tồn đọng.
Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí đã có những chuyển biến tích cực. Triển khai nghiêm túc, kịp thời các quy định của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí, các quy định về công khai tài chính, quản lý sử dụng tài sản công, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, hội nghị, tiếp khách,... Tích cực triển khai các biện pháp phòng ngừa và tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Các vụ việc tham nhũng được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo pháp luật; vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng trong phòng chống tham nhũng, lãng phí tiếp tục được phát huy.
4. Công tác xây dựng Đảng được tăng cường; hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền được nâng lên; hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được phát huy.
Các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng được triển khai nghiêm túc. Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” triển khai đảm bảo theo đúng kế hoạch, đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở; quá trình kiểm điểm nghiêm túc, thẳng thắn, cầu thị. Kết quả đánh giá 95,6% chi, đảng bộ cơ sở kiểm điểm đạt yêu cầu, còn lại là cơ bản đạt yêu cầu. Hằng năm, các cấp ủy đảng duy trì công tác kiểm tra việc thực hiện và khắc phục sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra; xử lý, giải quyết những việc cần làm ngay trên địa bàn; tiến hành gợi ý, lưu ý kiểm điểm đối với các tập thể, cá nhân. Qua kiểm điểm, tính tự phê bình và phê bình, tính chiến đấu trong Đảng của đảng viên, tổ chức đảng được nâng lên một bước; góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương, nâng cao tinh thần trách nhiệm, đổi mới lề lối làm việc.
Chỉ thị số 03-CT/TƯ của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai sâu rộng. Đến nay toàn tỉnh có 98,4% đảng viên đăng ký nội dung làm theo; đã có 592 tập thể và 950 cá nhân trở thành điển hình tiên tiến các cấp; qua đó, đã tạo chuyển biến về nhận thức và ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đã tạo sự lan tỏa, động viên, lôi cuốn quần chúng noi theo.
Công tác chính trị tư tưởng được quan tâm. Triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có nhiều đổi mới về phương thức, nội dung truyền đạt; tỷ lệ cán bộ đảng viên tham gia học tập nghị quyết đạt trên 96%; coi trọng việc cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch phù hợp với điều kiện địa phương, đơn vị. Công tác tư tưởng, giáo dục lý luận, chính trị, giáo dục truyền thống nhân các ngày kỷ niệm, sự kiện chính trị lớn của đất nước được đẩy mạnh. Làm tốt công tác định hướng tuyên truyền, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có các biện pháp và chủ động đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch, âm mưu “Diễn biến hoà bình'' trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá. Tích cực triển khai công tác điều tra, nắm bắt dư luận xã hội; sau điều tra đã ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, góp phần ổn định tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Công tác tổ chức xây dựng đảng có chuyển biến tích cực. Tiến hành các giải pháp củng cố, kiện toàn, sắp xếp tổ chức, bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị để nâng cao hiệu quả hoạt động; thành lập Ban Nội chính Tỉnh ủy, Sở Ngoại vụ đảm bảo đúng quy định.
Công tác cán bộ được đặc biệt quan tâm; kịp thời, sửa đổi, bổ sung, ban hành chế độ chính sách, quy định, quy chế đối với công tác cán bộ; xây dựng quy hoạch cán bộ đảm bảo đồng bộ, liên thông, đúng quy trình, công khai, có tính kế thừa và phát triển. Chất lượng đội ngũ cán bộ và cán bộ dự nguồn được nâng cao; từng bước chuẩn hoá về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị; trong nhiệm kỳ, cấp ủy các cấp đã thực hiện đảm bảo quy trình, dân chủ trong công tác đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử, bổ sung cấp ủy và điều động luân chuyển cán bộ, tạo điều kiện để cán bộ rèn luyện, thử thách qua thực tiễn.
Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên được đẩy mạnh. Thường xuyên rà soát, bổ sung phương pháp, tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; đã ban hành hướng dẫn và kịp thời sơ kết, tổng kết các chuyên đề về đánh giá chất lượng đảng bộ các huyện, thành, thị và đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy hằng năm; có giải pháp cụ thể để chấn chỉnh và củng cố các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên yếu kém, đã hoàn thành xóa các cơ sở đảng yếu kém và khu dân cư chưa có chi bộ độc lập. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh hằng năm đạt trên 75,8%, tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 82,7%. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo; tăng cường kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; chú trọng phát triển đảng trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vùng đồng bào có đạo, những nơi có ít hoặc chưa có đảng viên; bình quân hằng năm kết nạp được 3.036 đảng viên. Thực hiện nghiêm túc công tác bảo vệ chính trị nội bộ và các chế độ chính sách đối với cán bộ theo phân cấp quản lý.
Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; góp phần giữ gìn sự trong sạch, đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ tỉnh. Các cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo đúng quy định của Điều lệ Đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện đảm bảo giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; trong đó tập trung kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy; công tác cán bộ; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; việc sửa chữa, khắc phục những tồn tại, hạn chế sau kiểm điểm theo nội dung Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI). Trong 5 năm, các cấp ủy đảng đã tiến hành kiểm tra 1.973 đảng viên (tăng 29%), 5.420 tổ chức đảng (tăng 104%); giám sát 1.768 đảng viên (tăng 53,6%), 2.160 tổ chức đảng (tăng 21,2% so với nhiệm kỳ trước); ủy ban kiểm tra các cấp tiến hành kiểm tra 241 tổ chức đảng và 769 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giám sát chuyên đề đối với 2.202 đảng viên và 1.239 tổ chức đảng; đã thi hành kỷ luật 13 tổ chức đảng và 1.214 đảng viên vi phạm.
Công tác dân vận có chuyển biến tích cực. Các cấp ủy đảng đã tập trung lãnh đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương về công tác vận động quần chúng; nhất là Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, Quy chế đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với Nhân dân, Quy định trách nhiệm trong tiếp thu góp ý của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; cụ thể hoá thành các nghị quyết chuyên đề, chương trình hành động, quy chế, quy định để chỉ đạo thực hiện. Tăng cường nắm tình hình của các tầng lớp nhân dân, tình hình dân tộc, tôn giáo, thực hiện chính sách an sinh xã hội,... kịp thời đề xuất, tham mưu cấp ủy có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo, phù hợp với thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân.
Hoạt động của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và công tác đối ngoại có nhiều đổi mới thiết thực.
Hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp không ngừng được đổi mới và nâng cao chất lượng. Nội dung thảo luận, quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, việc chất vấn, trả lời chất vấn tại kỳ họp đã phát huy dân chủ, trí tuệ của đại biểu, được cử tri và nhân dân quan tâm, đánh giá cao; vai trò giám sát được tăng cường, ngày càng thực chất hơn. Hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh có nhiều đổi mới, tích cực đóng góp nhiều ý kiến xây dựng pháp luật và tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Hoạt động của ủy ban nhân dân các cấp tiếp tục được đổi mới theo nguyên tắc tập trung dân chủ; hiệu lực, hiệu quả điều hành được tăng cường; bám sát định hướng, xác định những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và gắn với thực hành dân chủ ở cơ sở, thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông và mô hình một cửa điện tử. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; tác phong, lề lối làm việc, năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức từng bước được nâng cao.
Công tác đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân được quan tâm, bảo đảm phù hợp với các quy định của Đảng và Nhà nước. Đã đẩy mạnh thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế với một số tỉnh của Lào và Nhật Bản. Công tác vận động, quản lý viện trợ phi chính phủ nước ngoài trên địa bàn đảm bảo hiệu quả, đúng mục đích, giá trị viện trợ ước đạt 17,4 triệu USD.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều chuyển biến thiết thực, hiệu quả. Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đã vận động đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng hệ thống chính trị của địa phương; thực hiện công tác giám sát và phản biện xã hội; đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân; tham gia, hưởng ứng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư", "Ngày vì người nghèo", "Vì biển đảo thân yêu", các phong trào thi đua yêu nước, cuộc vận động và các hoạt động nhân đạo từ thiện do các đoàn thể chính trị - xã hội phát động.
II. KHUYẾT ĐIỂM, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Khuyết điểm, hạn chế
1.1. Lĩnh vực phát triển kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt thấp so với chỉ tiêu; chất lượng tăng trưởng chưa vững chắc; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chậm. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết với chế biến, bảo quản và tạo lập thị trường đầu ra trong tiêu thụ sản phẩm; chưa có nhiều vùng sản xuất hàng hóa lớn, giá trị gia tăng cao và sản phẩm có thương hiệu; tiến độ xây dựng nông thôn mới chậm. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng thấp; một số ngành, sản phẩm thiếu ổn định, sức cạnh tranh thấp; hạ tầng khu, cụm công nghiệp thiếu và yếu; tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề trong nông thôn chậm phát triển.
Tỷ trọng các loại dịch vụ chất lượng cao, tỷ lệ tăng thu so với nhu cầu chi ngân sách đạt thấp; thu hút, hiệu quả đầu tư trong một số lĩnh vực còn hạn chế, chưa tạo ra các nhân tố mới cho tăng trưởng dài hạn và bền vững. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; quản lý tài nguyên đất đai, khoáng sản hiệu quả chưa cao; ô nhiễm môi trường tại một số nhà máy, cơ sở sản xuất, việc thu gom, xử lý rác thải khu vực nông thôn cải thiện còn chậm.
Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa ba khâu đột phá để tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Thu hút vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh thấp; chưa thu hút được dự án có năng lực sản xuất lớn, hàm lượng giá trị gia tăng cao, tạo bước đột phá cho phát triển kinh tế. Cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa hợp lý, thiếu lao động chất lượng cao, lao động công nghệ cao và lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp nghề trở lên; đào tạo nghề theo phương châm xã hội hoá tuy có tiến bộ, nhưng đạt tỷ lệ thấp. Hạ tầng dịch vụ, chất lượng phục vụ tại các điểm du lịch và việc kết nối giữa các tua, tuyến còn hạn chế; sản phẩm du lịch thiếu đa dạng, đóng góp của ngành du lịch vào phát triển kinh tế chưa tương xứng tiềm năng.
1.2. Lĩnh vực văn hoá - xã hội
Thiếu nguồn nhân lực y tế có trình độ chuyên môn cao; kỹ năng giao tiếp, thái độ ứng xử của một bộ phận cán bộ y tế đối với người bệnh có nơi, có lúc chưa chuyên nghiệp, tận tình; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, sinh con thứ 3 trở lên có xu hướng gia tăng.
Chất lượng giáo dục đào tạo còn có sự chênh lệch, chưa thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền, loại hình; tỷ lệ huy động trẻ ra lớp ở độ tuổi nhà trẻ thấp. Hệ thống thiết chế văn hóa và thiết chế thông tin cơ sở còn thiếu và yếu, nhiều nơi bị xuống cấp, hiệu quả sử dụng thấp. Thể thao thành tích cao có chiều hướng giảm sút.
Chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn hạn chế; cơ cấu và một số ngành nghề đào tạo chưa sát thực tế, thiếu gắn kết giữa đào tạo với sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chất lượng đào tạo bất cập, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống, tác phong và kỹ năng làm việc.
Thực hiện chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp có mặt còn hạn chế. Kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững, nguy cơ tái nghèo cao, nhất là vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc.
1.3. Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Tình hình an ninh trật tự cơ sở, tội phạm và tệ nạn xã hội tiềm ẩn yếu tố phức tạp. Công tác phối hợp giữa các lực lượng, cơ quan chức năng trong việc xử lý, giải quyết các vấn đề bức xúc ở cơ sở có nơi, có việc chưa kịp thời. An ninh trật tự trong hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản, cát sỏi có thời điểm diễn biến phức tạp; tai nạn giao thông giảm nhưng chưa vững chắc.
Công tác cải cách tư pháp tuy đã có những chuyển biến nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; kết quả công tác thi hành án dân sự chưa đạt so với chỉ tiêu đề ra. Vai trò trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn hạn chế; việc chấp hành quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng tài sản công có nơi chưa nghiêm.
1.4. Lĩnh vực công tác xây dựng Đảng, hoạt động của hệ thống chính trị
Công tác khắc phục các khuyết điểm, hạn chế đã được chỉ ra sau kiểm điểm Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) có nơi, có việc chưa chuyển biến rõ nét. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một số nơi chưa trở thành thường xuyên, tự giác, thực hiện còn mang tính hình thức.
Một số cấp ủy đổi mới phương thức lãnh đạo còn chậm; năng lực, hiệu quả lãnh đạo chưa đáp ứng yêu cầu, chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc. Việc nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên ở một số cơ sở chưa kịp thời.
Công tác đánh giá, phân loại tổ chức đảng, đảng viên của một số địa phương chưa phản ánh sát thực tế; chất lượng sinh hoạt ở một số chi bộ chưa cao; công tác quy hoạch cán bộ ở một số chi, đảng bộ thiếu tầm nhìn xa, chất lượng nguồn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài.
Công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, kiểm tra, giám sát cấp ủy viên cùng cấp và việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các kết luận sau kiểm tra có đảng bộ còn hạn chế. Chưa tổ chức được nhiều cuộc kiểm tra, giám sát có tác động lớn, trong phạm vi toàn tỉnh nhằm nâng cao kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát một số chương trình chồng chéo, hiệu quả chưa cao.
Cải cách hành chính chuyển biến chưa mạnh; năng lực cạnh tranh cấp tỉnh thấp. Công tác quản lý Nhà nước một số lĩnh vực còn hạn chế; còn có cơ quan, đơn vị hành chính bộ máy cồng kềnh; có tình trạng một số cán bộ, công chức bằng cấp nhiều nhưng kiến thức, năng lực thực tế không tăng tương ứng. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể có nơi chưa tích cực đi sâu bám sát cơ sở, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động.
2. Nguyên nhân
2.1. Nguyên nhân khách quan
Phú Thọ là tỉnh miền núi có nhiều khó khăn, quy mô kinh tế còn nhỏ, các nguồn nội lực hạn chế; hạ tầng cho phát triển kinh tế chưa đồng bộ, nên thu hút đầu tư gặp khó khăn, chưa phát huy được vị trí địa kinh tế; một số dự án trọng điểm tạo năng lực sản xuất mới do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế nên đã dừng đầu tư, chậm tiến độ, một số dự án hoàn thành nhưng phải cắt giảm sản lượng hoặc ngừng sản xuất; biến đổi khí hậu, thiên tai xảy ra ở nhiều nơi ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
Công tác nghiên cứu, dự báo tình hình chưa lường hết được những khó khăn, nên Đại hội XVII đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ khá cao; quá trình thực hiện chưa tính toán, cân đối đủ nguồn lực để thực hiện mục tiêu đề ra; năng lực triển khai, cụ thể hóa, công tác tổ chức chỉ đạo, điều hành thực hiện Nghị quyết ở một số ngành, địa phương chưa kiên quyết và dứt điểm, sự phối hợp thiếu chặt chẽ.
Một số cấp ủy chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện trên các lĩnh vực; tính chiến đấu trong đấu tranh tự phê bình và phê bình ở một số chi bộ chưa cao.
Công tác tổ chức chỉ đạo, điều hành ở một số ngành, địa phương chưa quyết liệt, sáng tạo; công tác chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc, phát hiện xử lý có việc chưa thường xuyên, kịp thời; việc phân công, phân cấp trách nhiệm của các cấp, các ngành và người đứng đầu trong việc tổ chức triển khai thực hiện có mặt hạn chế.
Năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi công vụ chưa cao; tình trạng thiếu tâm huyết, không sâu sát cơ sở, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm có lúc, có nơi còn diễn ra.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Một là: Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải kiên quyết, nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo; bám sát tình hình để tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vấn đề thực tiễn phát sinh; đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển toàn diện, vững chắc.
Hai là: Chú trọng làm tốt công tác xây dựng Đảng; thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị, tâm huyết, trách nhiệm, có trình độ năng lực thực tiễn và uy tín trong Đảng, trong xã hội; đề cao trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp.
Ba là: Đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất trong mỗi cơ quan, đơn vị và trong toàn Đảng bộ; mở rộng, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, chỉ đạo điều hành của bộ máy chính quyền các cấp; phát huy vai trò giám sát của hội đồng nhân dân; tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Bốn là: Khơi dậy tiềm năng, phát huy lợi thế, huy động nội lực, thực hiện tốt xã hội hóa, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; lựa chọn đúng các khâu đột phá, các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, những chỉ tiêu chất lượng và vấn đề mới phát sinh, để tăng cường chỉ đạo, cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch sát với tình hình thực tiễn.
Năm là: Coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá - xã hội, bảo vệ môi trường; củng cố quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ NHIỆM KỲ 2015 - 2020
Dự báo trong 5 năm tới, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục là xu thế chủ đạo; kinh tế thế giới và trong nước đang trên đà phục hồi; nhiều hiệp định kinh tế được ký kết tạo điều kiện cho nước ta tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư của các quốc gia thành viên, gia tăng xuất khẩu các mặt hàng lợi thế; tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Quy mô, tiềm lực kinh tế đất nước sau 30 năm đổi mới được nâng lên; chính trị, xã hội ổn định; hệ thống chính sách, pháp luật ngày càng hoàn thiện tạo điều kiện cho kinh tế tiếp tục phát triển. Tỉnh Phú Thọ được bổ sung vào quy hoạch Vùng Thủ đô nên có nhiều điều kiện, cơ hội mới để tăng cường hợp tác, liên kết phát triển; một số dự án lớn về đầu tư kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông đối ngoại đưa vào vận hành góp phần cải thiện vị trí địa kinh tế và môi trường đầu tư; các giá trị văn hóa vùng Đất Tổ được tôn vinh, phát huy, góp phần quảng bá, tạo sức lan tỏa, tạo ra nhân tố thuận lợi và những thời cơ mới cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực vẫn diễn biến phức tạp; bảo hộ mậu dịch dưới nhiều hình thức, cạnh tranh về kinh tế, thương mại giữa các nước sẽ diễn ra gay gắt; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp. Các hoạt động chống phá, âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp. Nội lực kinh tế của tỉnh còn yếu; quy mô doanh nghiệp nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; khả năng tranh thủ các nguồn lực gặp nhiều khó khăn; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường... là những khó khăn, thách thức đối với sự phát triển của tỉnh những năm tới.
I. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU
1. Phương hướng
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; phát huy sức mạnh hệ thống chính trị và các thành phần kinh tế; khai thác, sử dụng hiệu quả tiềm năng, lợi thế, phát huy các giá trị văn hóa vùng Đất Tổ; tập trung thực hiện nội dung trọng tâm trong ba khâu đột phá về đầu tư kết cấu hạ tầng then chốt, phát triển nguồn nhân lực và du lịch để kinh tế phát triển nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; xây dựng nền tảng đưa Phú Thọ cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp.
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
2.1. Về kinh tế
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP theo giá so sánh 2010) tăng bình quân 7,5%/năm; trong đó: Công nghiệp và xây dựng tăng 9,5%/năm; dịch vụ tăng 7,5%/năm; nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,5%/năm.
(2) GRDP bình quân đầu người đạt 2.400 USD/năm.
(3) Cơ cấu kinh tế: Tỷ trọng giá trị tăng thêm các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ chiếm 80%; giá trị tăng thêm ngành nông lâm nghiệp, thủy sản chiếm 20%.
(4) Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, đến năm 2020 đạt trên 1.300 triệu USD.
(5) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm đạt 95 nghìn tỷ đồng.
(6) Thu ngân sách nhà nước từ sản xuất kinh doanh trên địa bàn tăng bình quân 10%/năm.
(7) Tỷ lệ đường giao thông nông thôn được kiên cố hoá đạt 70%.
2.2. Về văn hoá - xã hội và môi trường
(8) Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5%/năm; huyện Tân Sơn thoát nghèo.
(9) Tỷ lệ lao động qua đào tạo và truyền nghề đạt 65%, trong đó đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 28%.
(10) Lao động có việc làm tăng thêm 5 năm đạt 77,5 nghìn; xuất khẩu lao động 2,5 nghìn người/năm trở lên.
(11) Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 82% dân số; có 11 bác sĩ, 32,4 giường bệnh trên 1 vạn dân; 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.
(12) Tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 50% tổng lao động toàn xã hội.
(13) Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: 70% trường mầm non, 90% trường tiểu học, 80% trường trung học cơ sở, 70% trường trung học phổ thông.
(14) Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 98%; tỷ lệ dân cư thành thị được sử dụng nước sạch đạt 91,95%.
(15) Tỷ lệ rác thải được thu gom, xử lý ở đô thị đạt 100%, ở khu dân cư tập trung ở nông thôn đạt 65%; 100% chất thải rắn y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn.
(16) Tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 51%.
(17) Toàn tỉnh có 2 huyện đạt chuẩn nông thôn mới; 124 xã đạt và cơ bản đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó có 57 xã đạt chuẩn).
(18) Tỷ lệ đô thị hóa đạt 25%.
2.3. Về xây dựng Đảng
(19) Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt trên 90%; trong đó, tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh đạt 50%; giảm số cơ sở đảng yếu kém xuống dưới 1%.
(20) Tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 80% trở lên; giảm số đảng viên vi phạm tư cách xuống dưới 0,5%.
(21) Kết nạp trên 2.500 đảng viên mới/năm; trong đó đảng viên mới trong doanh nghiệp trên 300 đảng viên/năm.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế - xã hội
Tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch các ngành của tỉnh đồng bộ, thống nhất, phù hợp với quy hoạch vùng và quy hoạch của Trung ương; đề xuất có cơ chế, chính sách đối với tỉnh để phát triển là một trong những trung tâm khoa học, công nghệ; giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ; có cơ chế chính sách phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng khó khăn.
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, khu, cụm công nghiệp; hỗ trợ phát triển sản xuất các sản phẩm chủ lực có tính cạnh tranh cao, đầu tư đổi mới công nghệ trong các lĩnh vực ưu tiên, chế biến sâu sản phẩm nông, lâm nghiệp.
Cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường pháp lý để tháo gỡ khó khăn, ách tắc, khai thác và phát huy tốt hơn những lợi thế so sánh của địa phương; về cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh; nhất là chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư, tạo mặt bằng sạch cho các dự án đầu tư; cơ chế, chính sách thu hút và phát huy các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển; thu hút một số dự án lớn tạo sự đột phá về đầu tư kết cấu hạ tầng then chốt, nhất là dự án phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao; chính sách về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển du lịch; về ứng dụng khoa học công nghệ, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài.
Cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện tham gia đầu tư phát triển sự nghiệp văn hoá - xã hội; cung cấp dịch vụ công, các hình thức hợp tác công tư; các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, tạo việc làm mới; tham gia dạy nghề, đào tạo nghề; chú trọng phát triển ngành nghề, dịch vụ khu vực nông thôn, miền núi; hỗ trợ người nghèo trong sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.
2. Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng then chốt; đặc biệt chú trọng xây dựng hạ tầng khu, cụm công nghiệp và các dự án, công trình trọng điểm
Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016 - 2020. Huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển; nâng cao tỷ trọng vốn đầu tư ngoài Nhà nước; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội theo hình thức đối tác công tư; tăng cường thu hút vốn FDI đầu tư hạ tầng thương mại, dịch vụ và khu, cụm công nghiệp; thu hút vốn đầu tư hạ tầng y tế, giáo dục - đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao, môi trường theo cơ chế xã hội hóa; khuyến khích phát triển nhanh kết cấu hạ tầng thông tin truyền thông. Thực hiện tốt cơ chế đấu giá đất ở, đất thương mại những nơi có điều kiện để tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng trọng điểm.
Tập trung huy động nguồn lực đầu tư đồng bộ, hiện đại hạ tầng các Khu công nghiệp Phú Hà, Cẩm Khê, Phù Ninh, Trung Hà. Phát triển giao thông vận tải đường bộ kết nối các trung tâm kinh tế của tỉnh với mạng lưới giao thông quốc gia và kết nối liên thông giữa các vùng: Đường Hồ Chí Minh, Âu Cơ, cao tốc Nội Bài - Lào Cai, quốc lộ 32, 70B, cầu Văn Lang; nâng cấp các tuyến tỉnh lộ, mở mới các tuyến trục vào các khu công nghiệp, đô thị, du lịch, các vùng sản xuất tập trung; phấn đấu cứng hóa 70% đường giao thông nông thôn. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành sớm xây dựng hoàn thành các dự án cầu Văn Lang, đường Hồ Chí Minh giai đoạn 2, quốc lộ, tỉnh lộ, đường sắt, cầu theo quy hoạch chưa được nâng cấp và các nút xuống đường cao tốc. Đầu tư kết cấu hạ tầng thành phố Việt Trì cơ bản trở thành thành phố Lễ hội về với cội nguồn dân tộc Việt Nam, trung tâm đô thị động lực, hạt nhân phát triển vùng và quốc gia; nâng cấp thị xã Phú Thọ lên thành phố; xã Tân Phú (huyện Tân Sơn) lên thị trấn.
Tiếp tục tranh thủ các nguồn vốn, chương trình đầu tư từ ngân sách Trung ương, vốn ODA để xây dựng các dự án thủy lợi đa mục tiêu, các trạm bơm tiêu úng lớn, đê kết hợp đường giao thông; các dự án trọng điểm: Khu di tích lịch sử Đền Hùng, Quảng trường Hùng Vương, Nhà hát Lạc Hồng, hồ công viên Văn Lang, Trường Đại học Hùng Vương, Bệnh viện đa khoa vùng, các trường cao đẳng nghề, trung tâm dạy nghề ở một số huyện. Tăng cường thu hút, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư xây hạ tầng kỹ thuật các dự án du lịch trọng điểm: Khu dịch vụ Nam Đền Hùng, Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thuỷ, Khu du lịch Đầm Ao Châu, dự án du lịch, nghỉ dưỡng, thể thao huyện Tam Nông...
3. Tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
Phát triển công nghiệp theo hướng tăng nhanh quy mô sản xuất, chất lượng và sức cạnh tranh. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có thế mạnh, công nghiệp, sản phẩm mới có hàm lượng khoa học, công nghệ, giá trị gia tăng cao, có nhiều sản phẩm tham gia xuất khẩu như: Cơ khí, điện tử, công nghiệp phụ trợ, chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, dệt may,... Chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh các sản phẩm công nghiệp truyền thống, có lợi thế về vùng nguyên liệu và thị trường. Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án mới, dự án đầu tư mở rộng, để sớm hoàn thành và đi vào hoạt động. Tiếp tục chuyển công nghiệp sử dụng nhiều lao động về địa bàn nông thôn; phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh hoạt động khuyến công. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển công nghiệp để phát huy lợi thế các vùng trong tỉnh và đảm bảo công tác quản lý, xử lý ô nhiễm môi trường. Sử dụng hiệu quả hệ số sử dụng đất trong các khu, cụm công nghiệp.
Phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp đến năm 2020, gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành, tập trung phát triển các sản phẩm chủ lực có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh. Huy động nguồn lực, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn; chú trọng xây dựng hạ tầng kỹ thuật vùng sản xuất trọng điểm, nhất là vùng sản xuất hàng hoá chủ lực và vùng khó khăn; đẩy mạnh việc chuyển đổi tư duy về phương thức sản xuất nhằm tăng quy mô, chất lượng sản phẩm hàng hóa bền vững theo chuỗi liên kết. Tập trung chỉ đạo dồn đổi, tích tụ ruộng đất tạo vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, gắn với chế biến sâu và tích cực giải quyết thị trường đầu ra cho nông sản; khắc phục tình trạng nông dân bỏ ruộng, bỏ vụ. Xây dựng chính sách phù hợp, lồng ghép có hiệu quả các chương trình, nguồn kinh phí hỗ trợ sản xuất trên cùng một địa bàn, phát triển nông nghiệp cận đô thị, nhân rộng các mô hình sản xuất có giá trị gia tăng cao. Chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nông thôn mới; chú trọng phát triển các công trình hạ tầng thiết yếu gắn với phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, xây dựng văn hoá cộng đồng, tập quán tốt đẹp của làng quê; phát triển các ngành nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao.
Phấn đấu đến 2020, giá trị sản phẩm bình quân trên 1 ha đất canh tác, cây hằng năm và thủy sản đạt trên 120 triệu đồng; hình thành khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ, du lịch; nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính, tín dụng. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại; chú trọng phát triển thị trường nông thôn; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu; xây dựng thương hiệu hàng hóa của tỉnh; đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ; xây dựng các trung tâm thương mại chất lượng cao tại thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, trung tâm thương mại ở các thị trấn. Mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống; huy động nguồn lực đầu tư phát triển các dịch vụ giao thông, vận tải, bến bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải.
Chú trọng phát triển các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thông tin truyền thông, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, giáo dục, đào tạo... Thu hút các ngân hàng lớn phát triển chi nhánh mới, phấn đấu trở thành trung tâm dịch vụ tín dụng của khu vực. Tích cực huy động nguồn vốn, mở rộng và phát triển các dịch vụ tiện ích ngân hàng theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ, trọng tâm là các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm của tỉnh.
Thực hiện hiệu quả khâu đột phá về phát triển du lịch, trong đó tập trung thu hút đầu tư hạ tầng du lịch và phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng, có lợi thế của tỉnh (du lịch tâm linh hướng về cội nguồn, sinh thái - nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí). Tăng cường liên kết phát triển tua, tuyến du lịch; tuyên truyền quảng bá tiềm năng, thế mạnh nguồn tài nguyên du lịch; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phục vụ tại các điểm du lịch. Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, kinh doanh du lịch. Phấn đấu có cơ sở vật chất kỹ thuật cơ bản đồng bộ, đảm bảo nhu cầu phát triển du lịch, từng bước trở thành địa bàn trọng điểm du lịch của vùng và đủ điều kiện để Phú Thọ đăng cai năm du lịch Quốc gia vào năm 2020.
Đẩy mạnh phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công; thực hiện tiết kiệm, hiệu quả dự toán chi ngân sách Nhà nước hằng năm; quản lý chặt chẽ để tạo nguồn thu từ tài nguyên và khoáng sản, chú trọng khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn thu tiền sử dụng đất; chỉ đạo kiên quyết xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản theo lộ trình, không để phát sinh nợ mới. Phấn đấu năm 2020, tỷ lệ huy động vào ngân sách so với GRDP bình quân đạt khoảng 8,8%.
Củng cố quan hệ sản xuất, phát triển bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã để làm tốt khâu dịch vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân để trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thu hút mạnh đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ; lựa chọn các dự án có vị trí, hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Thường xuyên rà soát và đơn giản hoá các thủ tục, minh bạch hoá các quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh, gia nhập thị trường của doanh nghiệp; duy trì kiểm tra, giám sát hoạt động các doanh nghiệp theo đúng quy định pháp luật.
4. Phát triển mạnh mẽ giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ; tăng cường quản lý sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường
Đổi mới, tạo chuyển biến, căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo. Tập trung thực hiện có hiệu quả khâu đột phá về phát triển nguồn nhân lực, chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức; thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài; đào tạo người lao động có trình độ kỹ thuật cao, có kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì, nâng cao chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn. Chăm lo đầu tư, đảm bảo cơ cấu và chuẩn hoá về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục. Củng cố kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở; đẩy mạnh phân luồng học sinh sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Chú trọng công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Khuyến khích xã hội hoá để đầu tư, xây dựng, phát triển các trường chất lượng cao ở các cấp học và trình độ đào tạo. Phấn đấu tỷ lệ kiên cố hoá trường lớp học đạt 95%.
Củng cố, nâng cao chất lượng, tạo dựng thương hiệu Trường Đại học Hùng Vương; quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp gắn với các quy hoạch về phát triển kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực; tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá; tăng tính kết nối giữa đào tạo nghề với các doanh nghiệp, thị trường lao động.
Phát triển và nâng cao hiệu quả khoa học công nghệ. Thực hiện đồng bộ việc nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng, hướng trọng tâm hoạt động khoa học công nghệ vào phục vụ sản xuất và đời sống, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển theo chiều sâu. Phát huy sức mạnh sáng tạo của đội ngũ trí thức trong phát triển kinh tế- xã hội, khoa học công nghệ và thực hiện tốt các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Tăng cường đầu tư, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; triển khai các hoạt động hợp tác trong và ngoài nước; xây dựng và phát triển thị trường; đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ. Hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới, hiện đại hoá, ứng dụng, làm chủ công nghệ tiên tiến, để sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao; góp phần nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng cường thẩm định công nghệ đối với các dự án đầu tư, ngăn chặn việc nhập công nghệ lạc hậu, công nghệ gây nguy hại đến sức khoẻ, tài nguyên và môi trường.
Quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ và cải thiện môi trường. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý đất đai, khoáng sản, cát sỏi, tài nguyên nước; thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất để nâng cao hiệu quả sử dụng đất và nguồn thu cho ngân sách; quản lý chặt chẽ diện tích đất lúa theo quy hoạch; xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý đất đai; làm tốt công tác thẩm định đánh giá tác động môi trường. Kiểm soát chất lượng nước ở lưu vực các sông; chủ động phòng ngừa, kiểm soát và giải quyết kịp thời các "điểm nóng" về ô nhiễm môi trường, cháy rừng. Đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường; phấn đấu 100% khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung bảo đảm tiêu chuẩn môi trường; có biện pháp xử lý rác thải ở nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
5. Xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, phong phú; nâng cao chất lượng thông tin; phát triển văn học nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đẩy mạnh xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Chú trọng bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể, phục vụ giáo dục truyền thống và gắn với phát triển kinh tế, du lịch; hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Hát Xoan Phú Thọ ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp. Đẩy mạnh hoạt động văn hoá, thông tin, thể thao hướng về cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân chủ động tổ chức các hoạt động văn hoá cộng đồng, gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị kinh tế xã hội; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, an toàn ở khu dân cư, nơi công cộng.
Phát triển toàn diện, sâu rộng phong trào thể dục thể thao quần chúng. Nâng cao chất lượng thể thao thành tích cao; quan tâm đào tạo, huấn luyện đội ngũ vận động viên, chú trọng những môn mũi nhọn, có thế mạnh. Khuyến khích các tổ chức xã hội, các cơ sở thể thao ngoài công lập đầu tư, cung ứng dịch vụ, tổ chức các hoạt động thể dục thể thao. Phấn đấu đến năm 2020 thành tích thể thao của tỉnh đứng ở tốp trung bình khá các tỉnh, thành, ngành trong toàn quốc.
Phát huy vai trò thông tin, báo chí, xuất bản trong công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng. Bám sát nhiệm vụ chính trị, cung cấp thông tin chính xác, bảo đảm tính chiến đấu, sự phong phú, hấp dẫn và thời sự trong hoạt động báo chí; phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp và nhu cầu thông tin người dân; định hướng hiệu quả dư luận xã hội; tạo sự đồng thuận cao trong Đảng và toàn xã hội; tuyên truyền các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, cổ vũ nhân rộng các phong trào thi đua trên các lĩnh vực; mở rộng hoạt động thông tin đối ngoại. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực báo chí, xuất bản, đặc biệt là các trang thông tin điện tử, các hoạt động dịch vụ văn hoá thông tin; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi sự xâm nhập và tác động tiêu cực của các sản phẩm văn hóa độc hại.
Đoàn kết đội ngũ văn nghệ sĩ, phát huy tài năng, năng lực sáng tác, đẩy mạnh phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật. Đổi mới phương thức hoạt động của hội văn học, nghệ thuật nhằm tập hợp, tạo điều kiện, xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ có trình độ, tâm huyết, trách nhiệm, phẩm chất chính trị; để sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ; phản ánh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước. Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ của Đảng; các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính ảnh hưởng xấu tới xã hội. Quan tâm coi trọng việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, nâng đỡ phát triển tài năng trẻ và tuyên truyền quảng bá sâu rộng các tác phẩm văn học nghệ thuật đến với công chúng. Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân có nhiều đóng góp, cống hiến cho tỉnh và đất nước.
6. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân; thực hiện hiệu quả các chính sách lĩnh vực lao động, người có công và xã hội
Triển khai các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; thực hiện tốt công tác dân số, gia đình và trẻ em. Xây dựng hệ thống y tế đảm bảo công bằng, hiệu quả và phát triển; củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; nâng cao năng lực của bệnh viện tuyến huyện và tỉnh; đảm bảo sự hài hòa giữa khám chữa bệnh phổ cập và dịch vụ y tế chuyên sâu. Nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần, trách nhiệm phục vụ người bệnh; phát huy hiệu quả cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế hiện đại; phấn đấu xây dựng Phú Thọ thành trung tâm dịch vụ y tế của vùng. Thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Tăng cường giám sát chặt chẽ, phát hiện sớm, xử lý kịp thời, triệt để các ổ dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra.
Ổn định mạng lưới cán bộ làm công tác dân số ở tuyến xã, phường, thị trấn; có biện pháp quyết liệt để giảm tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh và tăng dân số tự nhiên; xử lý nghiêm các trường hợp sinh con thứ 3 trở lên và vi phạm chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình. Tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện; ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em, bạo lực học đường. Khống chế tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,1%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 12,6%.
Giải quyết tốt các vấn đề lao động, việc làm, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội. Chú trọng tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm thất nghiệp, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian ở nông thôn; nâng cao tỷ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm tự nguyện. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, đẩy mạnh hoạt động "Đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc người có công; quan tâm đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm cho con em gia đình chính sách. Tiếp tục thực hiện hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; hỗ trợ, tạo cơ hội cho hộ nghèo tiếp cận các dịch vụ về trợ giúp pháp lý, đất đai, tín dụng, dạy nghề, khuyến công, khuyến nông lâm ngư nghiệp, tiêu thụ sản phẩm,... Thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo; nâng cao trình độ dân trí, mức sống và mức hưởng thụ văn hoá cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng khó khăn.
7. Củng cố vững chắc thế trận quốc phòng, giữ vững an ninh, ổn định chính trị; đẩy mạnh cải cách tư pháp, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, có tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao; nâng cao chất lượng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên; chỉ đạo nhiệm vụ tuyển quân hàng năm đạt số lượng, chất lượng cao; tổ chức, xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện ngày càng vững chắc.
Tập trung đấu tranh, trấn áp, xử lý, kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm; không để phát sinh hoặc hình thành các băng, nhóm tội phạm, các tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tạo chuyển biến tích cực đối với xã, phường, thị trấn trọng điểm, phức tạp về trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh; không để xảy ra bị động, bất ngờ; tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”. Thực hiện đồng bộ các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu tai nạn giao thông, phòng cháy, chữa cháy.
Tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức, xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TƯ của Bộ Chính trị. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ, phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ và đầu tư cơ sở vật chất các cơ quan tư pháp. Phát huy vai trò của các đơn vị, cá nhân trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xử lý tố giác, tin báo tội phạm. Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, đảm bảo không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm; thực hiện có hiệu quả công tác thi hành án. Tích cực tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật đơn khiếu nại, tố cáo.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; gắn với chương trình tổng thể về cải cách hành chính Nhà nước; tạo sự chuyển biến rõ rệt trong công tác phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, nhất là những lĩnh vực dễ phát sinh sai phạm như quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản, thực hiện dự án, chi tiêu ngân sách và sử dụng tài sản công. Thực hiện đúng quy định về việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc việc công khai minh bạch các cơ chế, chính sách, quy định của Nhà nước; làm rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng phí. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi tham nhũng; xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật những tổ chức, cá nhân tham nhũng, gây thất thoát, lãng phí tài sản và những trường hợp bao che, ngăn cản; khuyến khích, bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, đảng viên và phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, tính tiên phong, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, sắc bén, thuyết phục của công tác tư tưởng: Gắn công tác tư tưởng với thực hiện nhiệm vụ chính trị, giải quyết những vấn đề quan trọng, nhạy cảm, phức tạp, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền các cấp. Tổ chức triển khai quán triệt, học tập nghị quyết của Đảng theo hướng thiết thực, phù hợp với từng loại hình tổ chức cơ sở đảng; nâng cao hiệu quả, tính thực tiễn trong xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo tổ chức thực hiện. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chú trọng công tác tuyên truyền miệng; công tác điều tra, nghiên cứu, dự báo, định hướng dư luận xã hội; củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và cộng tác viên dư luận các cấp. Tăng cường công tác định hướng tư tưởng chính trị và quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ. Chủ động đấu tranh chống âm mưu và hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Tiếp tục chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03-CT/TƯ của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, biểu dương, nhân rộng các điển hình trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tổ chức xây dựng Đảng. Làm tốt quán triệt, triển khai thực hiện Điều lệ Đảng (khóa XII) và các quy định về thi hành Điều lệ Đảng. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, bảo đảm tinh gọn, năng động, có hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chú trọng đào tạo cán bộ theo quy hoạch, phù hợp với yêu cầu sử dụng chức danh công tác và cơ cấu ngành nghề theo hướng chuyên môn sâu. Xây dựng đội ngũ cán bộ có cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự kế thừa và phát triển; có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực, trình độ, trách nhiệm, thực sự tiền phong gương mẫu, sâu sát cơ sở, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Xây dựng quy chế nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm, lấy tiêu chuẩn và hiệu quả công tác thực tế làm thước đo chủ yếu, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo quy hoạch, khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín, nhằm tạo sự đột phá trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm đối với cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có trình độ, năng lực chuyên môn cao, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt để tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đẩy mạnh xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; củng cố, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước; kịp thời kiện toàn cấp ủy, tăng cường cán bộ ở những nơi khó khăn, phức tạp. Làm tốt việc đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở đảng, đảng viên đảm bảo chặt chẽ, đúng thực chất. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục trong sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, phù hợp với yêu cầu của tỉnh trong giai đoạn mới; tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động trong các loại hình cơ sở đảng. Làm tốt, có hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Kịp thời sơ kết, tổng kết các chuyên đề về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Tiếp tục chỉ đạo, khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế qua kiểm điểm Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) đã xác định.
Tiếp tục đổi mới phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình; nêu cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác. Xây dựng quy chế về mối quan hệ hoạt động và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng đối với hệ thống chính trị, tránh tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo; phát huy tính chủ động, sáng tạo, vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân.
Đổi mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ. Tiến hành kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm, giám sát phải mở rộng để chủ động phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện và có giải pháp chấn chỉnh, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống. Chủ động nắm tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra đúng đối tượng, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn nổi cộm, dễ phát sinh vi phạm. Công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật của Đảng kết hợp chặt chẽ với công tác thanh tra, giám sát của hội đồng nhân dân và các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội theo đúng chức năng, thẩm quyền. Duy trì tốt giám sát thường xuyên, tăng cường thực hiện giám sát theo chuyên đề, giám sát cấp ủy viên cùng cấp; kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến đảng viên và tổ chức đảng. Củng cố, kiện toàn bộ máy kiểm tra, giám sát các cấp; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra.
Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo công tác vận động quần chúng, công tác tôn giáo, dân tộc đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Củng cố, phát huy hiệu quả hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở các cấp; triển khai thực hiện tốt Quy chế dân chủ và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; nâng cao chất lượng công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước, các cấp chính quyền gắn với phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quy chế, quy định về công tác dân vận, trọng tâm là Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới; các quyết định của Bộ Chính trị về quy định trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tiếp thu góp ý của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và Quy chế đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với Nhân dân. Tuyên truyền, vận động nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh, góp phần thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.
9. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, nhất là hình thức, phương thức hoạt động, thông qua công tác giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương theo thẩm quyền; đổi mới hoạt động các kỳ họp, tiếp xúc cử tri, đôn đốc giải quyết kịp thời các kiến nghị sau giám sát và những ý kiến, kiến nghị của cử tri.
Nâng cao trách nhiệm, năng lực trong công tác chỉ đạo, điều hành của bộ máy Nhà nước; rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảm bảo tinh gọn, có hiệu quả; xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp. Quyết liệt chỉ đạo thực hiện cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thuận tiện cho người dân, doanh nghiệp. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính; xây dựng đề án xác định vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Xây dựng, nâng cao chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức công vụ; xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ. Có các giải pháp nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư; duy trì thực hiện Quy chế đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với Nhân dân. Đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng theo quy định của pháp luật; giải quyết nhu cầu hợp pháp, chính đáng và vận động tổ chức, tín đồ tôn giáo thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng phát triển kinh tế - xã hội; kiên quyết đấu tranh hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Tiếp tục quán triệt đường lối, công tác đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân. Duy trì, làm sâu sắc hơn các mối quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống, mở rộng hợp tác với các đối tác nước ngoài; tăng cường các hoạt động ngoại giao kinh tế địa phương; xây dựng các chương trình xúc tiến, vận động đầu tư, viện trợ trong và ngoài nước. Tổ chức thực hiện tốt các chương trình hoạt động về đối ngoại nhân dân, công tác kiều bào. Xây dựng các chương trình thông tin đối ngoại nhằm giới thiệu, quảng bá về tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển. Đổi mới xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước, đảm bảo thiết thực, hiệu quả.
Tăng cường xây dựng, củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng các lĩnh vực công tác của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị- xã hội, đảm bảo hiệu quả, thiết thực; tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho cơ sở. Đổi mới hình thức sinh hoạt và tập hợp đoàn viên, hội viên, nhất là ở khu vực nông thôn, các khu công nghiệp; thường xuyên chăm lo lợi ích hợp pháp của Nhân dân, lắng nghe ý kiến, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn trong nội bộ Nhân dân; thực hiện có hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội với các cấp chính quyền.
Trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ tỉnh đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được những thành quả quan trọng. Nhiệm kỳ tới, Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVIII kêu gọi cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy những thành tựu đã đạt được, tăng cường đoàn kết, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức; đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, xây dựng nền tảng đưa Phú Thọ cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp; từng bước vươn lên trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh và hiện đại; cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội