Tại toà thị chính ở Pari, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam
nhất định không bao giờ chịu làm nô lệ một lần nữa, tháng 9/1946
1.Chuyện mượn nồi và chiếc bình ngọc
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, mấy trục vạn quân Tưởng kéo vào tìm cách khiêu khích để lấy cớ tiêu diệt cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã triệu tập các vị lãnh đạo cấp cao để xử lý một vấn đề “hệ trọng” Người nói:
- Tướng T.V. của quân đội Trung Hoa Dân quốc có gửi cho tôi một bức công văn, nội dung như sau:
“Kính thưa cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Yêu cầu cụ cho mượn một cái nồi nấu cơm”.
Không cần phải nói ,ai nấy đều có thể hình dung không khí ức giận bao trùm cuộc họp. Có những ý kiến đòi đánh.
Với phong thái bình tĩnh, ung dung , Người nói: “Nền Độc lập ta vừa mới dành được giống như một chiếc bình ngọc. Nay có những con kiến bò trên miệng bình, nếu ta dùng gậy đập kiến, chưa chắc kiến đã chết mà bình ngọc vỡ. Nếu ta lấy một cái que bắc cầu cho chúng xuống thì kiến sẽ đi hết, như vậy có hơn không? Còn trong sự việc đem ra bàn, họ mượn cái nồi nấu cơm thì ta cho họ mượn, việc gì các chú phải nổi nóng như vậy”.
2.Ăn mặc giản dị nhưng cũng phải hợp hoàn cảnh
Những bức ảnh của Bác Hồ chúng ta biết được đến ngày nay, thường không ai thấy Bác mặc comle, thắt cravát. Tuy vậy, lần sang thăm một nước bạn, một cán bộ Ngoại giao xin phép Bác ra phố, Bác yêu cầu cán bộ mặc quần áo, thắt cravát nghiêm chỉnh rồi mới cho phép đi.
Bác nói:
- Đời sống thì ăn mặc cũng khá lên. Nhưng phải tùy vào cảnh, tùy thời.
Vào khoảng cuối tháng 4/1946, do thực dân Pháp không chịu từ bỏ ý đồ xâm lược trở lại Việt nam, để tạo điều kiện, chuẩn bị kháng chiến, Bác và phái đoàn do Thủ tướng Phạm văn Đồng làm trưởng đoàn, sang thăm Pháp, điều đình với Chính phủ Pháp.
Trước ngày đi, vẫn thấy Bác làm việc theo thời gian biểu đã định, chẳng thấy Bác “sắm sửa gì”. Trong khi đó môt số cán bộ trong đoàn lo tìm hiểu “ mốt” Paris, lo may mặc những bộ comle, sơ mi, cravát , đóng giầy mới, có người còn lo cả khoản nước hoa.
Việc làm ấy của các cán bộ cũng là tốt, nhưng có điều là đi hơi xa hay có thể hơi “ ồn ào”. Có vẻ như một cuộc “ thi đua” may sắm. Chuyện đến tai Bác. Thương yêu, bình đẳng, nhưng không thể không nhắc nhở, Bác nói:
- Các chú muốn thi đua với Tổng thống, Thủ tướng nước ngoài về ăn mặc thì thua họ thôi. Bác cháu ta thi đua với họ về long yêu nước, thương dân thì ta mới thắng.
Bác Hồ trong chuyến thăm Pháp năm 1946
3. Bức tranh và cái khung
Sau khi ký với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường về nước trên tàu Dumont d’Urville, một thông tín hạm của Hải quân Pháp. Bác rời cảng Toulon ngày 19/9 và cập bến Hải Phòng ngày 20/10/1946.
Khi tàu đến hải phận nước ta, Bác nhận được một bức thư điện từ Sài Gòn của Tướng d’Argenlieu, Cao ủy Pháp, yêu cầu được gặp Bác. Người nhận lời và tàu ghé vào vịnh Cam Ranh. Đó là ngày 18/10/1946.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Ấn Độ năm 1958
Vịnh Cam Ranh hôm đó trời trong xanh, nắng vàng rực rỡ. Trên các chiến hạm Pháp, cờ được kéo lên, súng giương cao nòng chào khách quý. Đô đốc d’Argenlieu cùng đoàn tùy tùng mặc lễ phục ra đón Bác. Trong bộ quần áo quen thuộc, tay cầm can và mũ cát màu vàng, Bác ung dung, đĩnh đạc. Không dễ mấy ai có được phong thái tự chủ đó nếu biết rằng, cuộc thương lượng Việt - Pháp tại Paris chỉ đưa đến những kết quả nửa vời.
Trong bữa tiệc hôm đó, Bác ngồi giữa hai vị tướng Pháp, một là chỉ huy lục quân, một là chỉ huy hải quân. Đô đốc d’Argenlieu vừa cười vừa nói:
- Vous voilà bien encadré par LArmée et la Marine, Monsieur le Président ( Thưa Chủ tịch, Ngài đang đóng khung giữa một hải quân và lục quân đó).
Tất cả các sỹ quan trên chiến hạm đều cười tán thưởng vì có thể hiểu : “ đang được đóng khung” hay “ bị bao vây” cũng thế. Đây là một kiểu chơi chữ trong tiếng Pháp. Bác thản nhiên mỉm cười và trả lời:
-Mais vous savez, Monsieur LAdmiral, cest le tableau qui fait la valeur du cadre ( Nhưng mà, Đô đốc biết đó, chính bức họa mới đem lại giá trị cho chiếc khung).
Trong ngôn ngữ Pháp, còn có câu cửa miệng: “ce nest pas le cadre qui fair la valeur du tableau” ( Chiếc khung thì có làm gì cho giá trị của bức họ đâu). Vì vậy , khi nhắc đến câu chuyện này, Giáo sư Phạm Huy Thông xếp nó vào hàng “ giai thoại văn hóa dân gian thông thái”. Ông cho rằng, câu chuyện cực kỳ độc đáo, giữ vị trí riêng trong dòng giai thoại đấu trí, thi tài, nói lên cái thông minh, uyên bác, cái hóm hỉnh và cả cái khí phách của một con người, một dân tộc.
“ Ngoại giao ở Hội nghị Geneva thắng lợi là vì Điện Biên Phủ đánh thắng lớn. Bây giờ cũng thế, đánh thắng lợi thì Ngoại giao thắng nhiều. Không cứ gì ở ta mà ở nước nào cũng vậy. Cố nhiên Ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì Ngoại giao sẽ thắng”.
“ Bây giờ nội trong nước ta cứ đánh cho thắng, thì ngoại giao dễ làm ăn. Ngoại giao của ta là cốt tranh thủ nhiều người ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta. Phải giải thích kỹ, vì sao ta cương quyết thắng, và mỹ nhất định phải thua”.
(Trích Bác Hồ nói chuyện với cán bộ ngoại giao, tháng 3/1966)
“Lúc đó Pháp muốn nhảy vào ta, Quốc dân Đảng thì muốn ở lại ta. Nếu để cả hai ở lại thì càng xấu, vì chúng xấu một chín một mười cả. Ta phải chọn lấy một. Khi ta ký Hiệp định sơ bộ 6/3, Bọn Quốc dân Đảng phải chuồn. Mình đã lợi dụng được mấy tháng này để chuẩn bị lực lượng của mình và tháng 5/1946, Bác đi paris ”.
“ Việc ta với Pháp ký Tạm ước ngày 14/9 tuy biết là không chắc chắn gì đâu nhưng được gì hay nấy đã. Về hai lần ký kết này, cán bộ ở ngoài Bắc có số người không hiểu cho đó là một thất sách, nhưng cán bộ miền Nam đã biết lợi dụng thời cơ này mà xoay ngay”.
( Trích Bác Hồ nói chuyện với cán bộ ngoại giao, tháng 3/1966)
|
4.Bác Hồ và lễ tân Ngoại giao
Ngày 16/2/1950,ddeeer chào mừng “Hiệp ước hữu nghị tương trợ đồng minh Trung – Xô” vừa được ký kết, J. Stalin, lúc đó là Hội đòng Bộ trưởng Liên Xô, tổ chức một bữa tiệc tại điện Kremlin. Chủ, khách khoảng ba bốn trục người, trong đó có Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc. Bác Hồ lúc đó đang có mặt tại Moscow và cũng được mời tiệc.
Trong bữa tiệc, Bác Hồ nói với J. Stalin:
-Thưa đồng chí Stalin, tôi xin được thỉnh thị đồng chí !
Stalin nói:
- Sao đồng chí lại thỉnh thị tôi? Tôi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, còn đồng chí là Chủ tịch nước, chức vụ cao hơn tôi, tôi phải thỉnh thị đồng chí mới đúng!
Bác Hồ nói nửa đùa nửa thật:
- Các đồng chí vừa ký hiệp ước với các đồng chí Trung quốc. Nhân tôi đang ở đây, chúng ta cũng ký với nhau một bản hiệp ước chứ?
Stalin đáp:
- Đồng chí sang đây là bí mật, làm sao có thể ký hiệp ước với đồng chí được?
Bác trả lời một cách hài hước:
- Rất đơn giản! Đồng chí cứ cho một chiếc máy bay chở tôi lượn một vòng rồi cử một vài người ra sân bay đón tôi, đưa tôi lên báo công khai. Thế rồi sau đó chúng ta sẽ ký với nhau một bản hiệp ước.
Stalin nghe nói như vậy không còn biết nói thế nào nữa chỉ cười:
- Sức tưởng tượng của người phương đông các đồng chí thật là phong phú!
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH KIÊM BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO (19/5/1890 – 2/9/1969)
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Ngoại giao kiệt xuất của Việt nam trong thế kỷ XX, Người đã sáng lập nền Ngoại giao hiện đại. Dưới sự lãnh đạo của Người, lần đầu tiên Việt nam đã vươn ra thế giới, tập hợp được lực lượng quốc tế đông đảo và mạnh mẽ chưa từng có ủng hộ nhân dân Việt Nam.
Trong suốt 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người chỉ đạo đường lối chiến lược, sách lược đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, lại vừa trực tiếp tham gia các hoạt động Ngoại giao, nhằm từng bước kiến tạo và mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường “ thế và lực” của nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa, đưa ngành Ngoại giao của nước ta lên một tầm cao mới.
Về vai trò của Bộ Ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo: “ Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”.( Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn các tờ báo về việc liên quan đến việc thành lập Chính phủ Liên hiệp ngày 16/12/1945 – Báo Cứu quốc, số 128, ngày 28/12/1945).
Những hoạt động Ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần tích cực vào việc tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại, đóng góp vào sự nghiệp vể vang của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vòng hoa viếng Lenin, năm 1955