Khu vực biên giới hai nước có cấu trúc địa hình tương đối phức tạp, độ chia cắt lớn, thấp dần từ Tây sang Đông dẫn đến hệ thống sông suối nơi đây phần lớn có xu hướng chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam, ít có giá trị đối với giao thông đường thủy. Tùy theo mùa, theo từng đoạn, khi thì nước xuống thấp khi thì dâng cao, chảy mạnh gây bồi lở và đổi dòng dẫn đến việc biến đổi địa hình lòng sông. Khu vực này cũng có một số tài nguyên khoáng sản đã và đang được nghiên cứu nhưng nhìn chung các mỏ có trữ lượng thấp, ít có giá trị khai thác thương mại.
Ngoài ra, đây cũng là khu vực có triển vọng về tài nguyên rừng. Do sự khai thác không có kế hoạch và tình trạng đốt rừng làm nương rẫy nên diện tích che phủ của rừng bị giảm sút nghiêm trọng khiến chế độ dòng chảy của các con sông bị biến đổi, hiện tượng xói lở, lũ ống, lũ quét trở nên thường xuyên hơn ảnh hưởng trực tiếp đến vùng dân cư cả khu vực miền núi và đồng bằng.
Hiện nay, Việt Nam - Trung Quốc đã mở 9 cặp cửa khẩu, đó là:
Tên cửa khẩu Việt Nam Tên cửa khẩu Trung Quốc
Ma Lù Thàng Kim Thủy Hà
Lào Cai (đường bộ) Hà Khẩu (đường bộ)
Lào Cai (đường sắt) Hà Khẩu (đường sắt)
Thanh Thủy Thiên Bảo
Trà Lĩnh Long Bang
Tà Lùng Thủy Khẩu
Đồng Đăng (đường sắt) Bằng Tường (đường sắt)
Hữu Nghị Hữu Nghị Quan
Móng Cái Đông Hưng
Hai bên cũng thống nhất sẽ mở các cặp cửa khẩu dưới đây khi đủ điều kiện
Tên cửa khẩu Việt Nam Tên cửa khẩu Trung Quốc
A Pa Chải Long Phú
U Ma Tu Khoàng Bình Hà
Mường Khương Kiều Đầu
Xín Mần Đô Long
Phó Bảng Đổng Cán
Săm Pun Điền Bồng
Sóc Giang Bình Mãng
Pò Peo Nhạc Vu
Lý Vạn Thạc Long
Hạ Lang Khoa Giáp
Bình Nghi Bình Nhi Quan
Chi Ma Ái Điểm
Hoành Mô Động Trung
Ngày 18/11/2009, hai nước đã ký Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc đánh dấu việc hai nước kết thúc trọn vẹn quá trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền. Ba văn kiện này chính thức có hiệu lực từ ngày 14/7/2010. Trong bài tổng quan này, xin giới thiệu một cách hệ thống về quá trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Quá trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc trải qua 3 mốc lớn là: (I) đàm phán ký kết Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; (II) triển khai và hoàn thành phân giới cắm mốc trên thực địa; (III) đàm phán ký kết 3 văn kiện liên quan đến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
I/ Đàm phán ký kết Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc:
Từ cuối thế kỷ XIX đường biên giới Việt - Trung được hoạch định trong Công ước hoạch định biên giới ngày 26/06/1887 và Công ước bổ sung ngày 20/06/1895 ký kết giữa Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc). Tuy nhiên trải qua hơn 100 năm, do tác động của thời tiết và biến động về chính trị - xã hội ở mỗi nước cũng như trong quan hệ hai nước, đường biên giới Việt - Trung đã có sự biến đổi.
Trong những năm 70 của thế kỷ XX, với mục tiêu xác lập một đường biên giới rõ ràng giữa hai nước, ta và Trung Quốc đã tiến hành 03 lần đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền, sau đó đàm phán bị gián đoạn do những biến cố của lịch sử. Cuộc đàm phán được nối lại ngay sau khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ năm 1991.
Tháng 10/1993, hai bên đã ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc. Theo đó, hai bên thỏa thuận trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế hiệp thương hữu nghị để giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; lấy Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 và các văn kiện, bản đồ hoạch định, cắm mốc biên giới kèm theo làm căn cứ để xác định lại đường biên giới Việt - Trung.
Sau 8 năm kiên trì đàm phán, ngày 30/12/1999, tại Hà Nội, thay mặt hai Nhà nước, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Đường Gia Triền đã ký Hiệp ước về biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, đặt nền tảng cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định lâu dài giữa hai nước.
Hiệp ước 1999 có ý nghĩa to lớn, là sự kiện quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt - Trung. Đặc biệt, Hiệp ước 1999 ghi nhận toàn bộ hướng đi của đường biên giới Việt – Trung từ Tây sang Đông và đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Tuy nhiên, Hiệp ước 1999 mới chỉ xác định đường biên giới bằng lời văn và trên bản đồ. Để thực thi chủ quyền quốc gia, tiến hành bảo vệ và quản lý lãnh thổ trên thực địa, hai bên cần tiến hành phân giới cắm mốc, chuyển đường biên giới từ lời văn trong Hiệp ước và bản đồ ra thực địa, cùng nhau xác định, đánh dấu rõ ràng từng vị trí cột mốc, vạch ra đường biên giới chính xác trên thực địa.
II/ Quá trình phân giới cắm mốc:
1- Ngay sau khi ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam -Trung Quốc, hai bên đã thành lập Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; thỏa thuận chia đường biên giới Việt - Trung thành 12 đoạn, giao cho 12 Nhóm liên hợp phối hợp tiến hành công tác phân giới cắm mốc trên thực địa.
Tháng 12/2001, hai bên tiến hành cắm cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh - Việt Nam) - Đông Hưng (Quảng Tây - Trung Quốc). Từ tháng 10/2002, hai bên đồng loạt triển khai phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung.
Suốt 8 năm, hai bên đã cùng nhau cố gắng giải quyết các vấn đề trên thực địa và trong đàm phán trên tinh thần thông cảm và chiếu cố đến mối quan tâm của nhau nhằm tìm ra một giải pháp công bằng, phù hợp với lời văn và tinh thần của Hiệp ước 1999. Hai bên đã tiến hành 13 vòng đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ và rất nhiều cuộc gặp hai Trưởng đoàn; 31 vòng đàm phán cấp Chủ tịch Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc. Càng về cuối đàm phán càng khó khăn phức tạp. Riêng trong năm 2008, hai bên đã tiến hành 11 vòng đàm phán cấp Chủ tịch Ủy ban liên hợp, vòng ngắn nhất kéo dài 9 ngày, vòng dài nhất kéo dài 23 ngày, phiên họp dài nhất tiến hành liên tục suốt hơn 30 giờ liền.
Ngày 31/12/2008, hai bên đã giải quyết dứt điểm toàn bộ các vấn đề còn tồn tại, hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Hai trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ đã ra Tuyên bố chung về việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc đúng thời hạn như Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thoả thuận.
2 - Kết quả: Hai bên đã phân giới xong toàn bộ tuyến biên giới đất liền Việt - Trung dài 1449,566km; cắm tổng số 1971 cột mốc(trong đó có 01 mốc ba Việt Nam - Trung Quốc - Lào; 1548 cột mốc chính; 422 cột mốc phụ). Hệ thống mốc giới này đã được đánh dấu, ghi nhận và mô tả phù hợp với địa hình thực tế một cách khách quan, khoa học, chi tiết. Nếu so sánh với đường biên giới của các nước trên thế giới, đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc được đánh giá là có mức độ cột mốc dầy đặc và rõ ràng nhất, được xác định theo phương pháp hiện đại đảm bảo tính trung thực và bền vững lâu dài.
Kết quả trên là thỏa đáng, hợp tình, hợp lý, đáp ứng yêu cầu của cả hai bên, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản mà hai bên đã thỏa thuận. Đường biên giới được xác lập trên thực địa về cơ bản theo đúng đường biên giới trong Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc 1999. Đối với một số nơi, hai bên cùng điều chỉnh theo nguyên tắc cân bằng về lợi ích và diện tích nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý và không gây xáo trộn đối với cuộc sống của cư dân biên giới.
Ngày 23/2/2009, ta và Trung Quốc đã long trọng tổ chức Lễ chào mừng hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc tại cửa khẩu Hữu Nghị - Hữu Nghị quan. Đây là một sự kiện quan trọng không chỉ đối với nước ta và quan hệ Việt - Trung mà còn đối với cả khu vực.
III/ Quá trình đàm phán, ký kết và phê chuẩn các văn kiện sau phân giới cắm mốc:
Ngay sau khi hoàn thành phân giới cắm mốc, bước sang năm 2009 Việt Nam và Trung Quốc thúc đẩy đàm phán 3 văn kiện: Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Với sự nỗ lực chung của hai bên, ngày 18/11/2009, tại Bắc Kinh, hai bên chính thức ký 3 văn kiện nêu trên đánh dấu hai nước đã hoàn thành trọn vẹn việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền.
Tiếp đó, hai bên khẩn trương hoàn thiện các thủ tục phê chuẩn. Ngày 14/7/2010, tại khu vực cửa khẩu Thanh Thủy (Hà Giang - Việt Nam) - Thiên Bảo (Vân Nam - Trung Quốc) hai bên tổ chức lễ công bố các văn kiện trên chính thức có hiệu lực.
Ba văn kiện Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc cùng với Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc năm 1999 tạo thành bộ hồ sơ hoàn chỉnh nhất về đường biên giới trên đất liền Việt - Trung. Các văn kiện này sẽ thay thế Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 cũng như Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên vùng biên giới Việt - Trung ký giữa Chính phủ hai nước năm 1991. Điểm khác biệt giữa các văn kiện mới này so với các văn bản trước đây về đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc được thể hiện trên một số điểm sau:
Một là, trong các văn kiện mới từng đoạn biên giới, từng cột mốc biên giới giữa hai nước được thể hiện một cách rõ ràng nhất không chỉ bằng lời văn mà cả trên các sơ đồ và bản đồ, giúp cho mọi người đều có thể dễ dàng nhận biết được đường biên giới. Các văn kiện này cũng đã quy định rõ những nội dung công việc cụ thể của các ngành chức năng trong việc quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới.
Hai là, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới mới quy định chi tiết hơn về công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn nước sông suối biên giới; quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn về sự qua lại biên giới của người, phương tiện và hàng hoá; nêu rõ quy chế phối hợp trong việc duy trì, bảo đảm an ninh, trật tự trên vùng biên giới. Kèm theo Hiệp định còn có 18 Phụ lục quy định về các loại mẫu giấy tờ trao đổi giữa hai bên trong quá trình xử lý các công việc trên vùng biên giới hai nước.
Ba là, Hiệp định quản lý biên giới mới đã bổ sung nhiều nội dung chi tiết hơn, đồng thời nêu ra các nguyên tắc và biện pháp cụ thể trong việc giải quyết từng vấn đề liên quan đến biên giới trên đất liền Việt - Trung, kể cả những vấn đề nảy sinh như: các biện pháp giải quyết vấn đề xuất nhập cảnh trái phép; các nguyên tắc về xây dựng các công trình ở vùng nước biên giới, vùng biên giới hay sửa chữa, khôi phục mốc giới…v.v).
Bốn là, trong Hiệp định quản lý biên giới mới có một nội dung hoàn toàn mới, đó là quy định việc thành lập Uỷ ban liên hợp biên giới đất liền Việt Nam -Trung Quốc để phối hợp, đôn đốc, giám sát việc triển khai công tác quản lý biên giới; Hiệp định quy định biên giới Việt Nam - Trung Quốc chia thành 8 đoạn và mỗi bên cử 8 đại diện biên giới phụ trách công tác quản lý.
Đặc biệt 03 văn kiện biên giới trên đất liền mới giữa Việt Nam và Trung Quốc cho phép hai bên có thể áp dụng những phương thức quản lý hiện đại, kể cả áp dụng kỹ thuật số trong công tác quản lý biên giới, tạo điều kiện cho các cơ quan hữu quan hai nước triển khai công tác quản lý biên giới một cách hiệu quả, khoa học, cùng nhau xây dựng đường biên giới trên đất liền Việt - Trung thực sự hòa bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác. Với đường biên giới mới này, quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc sẽ có điều kiện để phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nguyện vọng và mong muốn của nhân dân hai nước.
IV/ Những thuận lợi, khó khăn trong việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc:
Quá trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền với Trung Quốc là một quá trình kéo dài, phức tạp và nhạy cảm. Trong quá trình triển khai vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn.
1- Thuận lợi:
- Công tác đàm phán giải quyết những vấn đề tồn tại cũng như việc triển khai phân giới cắm mốc trên thực địa luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước. Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ đã triệu tập nhiều cuộc họp để nghe báo cáo tình hình và cho ý kiến chỉ đạo các cuộc đàm phán. Nhiều đồng chí Lãnh đạo cấp cao đã trực tiếp lên khảo sát thực địa để nắm tình hình và động viên các lực lượng phân giới cắm mốc.
- Các bộ, ngành và địa phương liên quan của ta đều nhận thức rõ và có ý thức trách nhiệm rất cao đối với công việc được giao; luôn phối hợp nhịp nhàng để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, trong quá trình công tác tại thực địa, các Nhóm phân giới cắm mốc đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình của các đồn biên phòng đóng trên địa bàn công tác và của nhân dân,chính quyền địa phương các khu vực biên giới. Công tác phân giới cắm mốc còn nhận được sự quan tâm, động viên của đồng bào trong và ngoài nước. Đây là chỗ dựa, là sự động viên tinh thần vô cùng quan trọng giúp cho các Đoàn đàm phán về biên giới lãnh thổ và những Nhóm phân giới cắm mốc vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trọng đại mà Đảng, Chính phủ và nhân dân giao phó.
2- Khó khăn:
Quá trình đám phán và triển khai phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc đã gặp không ít khó khăn:
Một là, sự không rõ ràng giữa lời văn trong Hiệp ước với thực địa. Hiệp ước 1999 mới chỉ mô tả đường biên giới bằng lời văn vẽ trên bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000. Đường biên giới trên bản đồ là một nét bút mực, khi chuyển ra thực địa có thể sai lệch hàng chục, thậm chí hàng trăm mét. Sự không thống nhất giữa lời văn Hiệp ước và bản đồ đính kèm với thực địa dẫn đến việc không thống nhất được hướng đi của đường biên giới, tạo ra các khu vực tồn đọng mà hai bên phải đàm phán để giải quyết.
Hai là, biên giới Việt - Trung có đặc điểm rất ít thấy trong những đường biên giới giữa các nước. Đó là cư dân khu vực biên giới hai nước sinh sống, canh tác đan xen qua nhiều thế hệ. Ở một số nơi, cư dân biên giới lại có quan hệ dòng tộc lâu đời, việc qua lại thăm thân, làm ăn diễn ra tương đối thường xuyên; có những khu vực bên này quản lý quá sang bên kia. Trong những trường hợp này, hai bên phải thương lượng giải quyết sao cho hạn chế đến mức thấp nhất tác động đến cuộc sống và sản xuất của cư dân biên giới.
Ba là, công tác phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc chủ yếu được thực hiện ở những nơi có điều kiện địa hình hết sức phức tạp, độ chia cắt lớn (núi cao, đèo dốc hiểm trở), điều kiện khí hậu, thời tiết hết sức khắc nghiệt (rừng thiêng nước độc; lũ quét; lũ ống...v.v), cơ sở hạ tầng yếu kém (nhiều nơi không có đường giao thông; xa khu dân cư), vật liệu xây dựng, lương thực, máy móc thiết bị ... phần lớn đều phải vận chuyển bằng sức người đến vị trí mốc giới. Hơn thế nữa, tại nhiều khu vực biên giới vẫn còn bom mìn, vật cản từ thời chiến tranh để lại.
Nhìn lại 35 năm qua kể từ khi hai nước chính thức tiến hành đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền, hai bên đã tiến hành trên 3000 cuộc đàm phán lớn nhỏ với tổng cộng trên 1 triệu giờ công lao động để có được thành quả tạo dựng đường biên giới trên đất liền Việt - Trung hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài giữa hai nước.
V/ Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc:
Việc giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quan hệ hai nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước xác định được một đường biên giới rõ ràng trên đất liền với một hệ thống mốc giới hiện đại, đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới Việt - Trung thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, lâu dài, hợp tác và phát triển, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền thể hiện trên một số điểm sau đây:
Thứ nhất, ta đã giải quyết hai trong ba vấn đề lớn do lịch sử để lại trong quan hệ Việt - Trung. Đó là giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới trên đất liền và vấn đề phân định vịnh Bắc Bộ, chỉ còn lại vấn đề Biển Đông. Những kinh nghiệm giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền sẽ tạo cơ sở cho việc đàm phán giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước.
Hai là, việc xác định một đường biên giới rõ ràng trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc tạo cơ sở để các ngành chức năng tiến hành quản lý biên giới một cách hiệu quả, ngăn ngừa hiện tượng xâm canh, xâm cư do thiếu hiểu biết về đường biên giới; mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị.
Ba là, việc hoàn thành giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền là biểu hiện sinh động của mối quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” Việt Nam - Trung Quốc, góp phần gia tăng sự tin cậy giữa hai bên, tạo động lực mới thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn.
Bốn là, trên bình diện quốc tế và khu vực, việc giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là sự đóng góp thiết thực đối với hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực, góp phần khẳng định các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế: giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ bằng thương lượng hòa bình; không sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp quốc tế./.
(Theo biengioilanhtho)