Bức họa Khuất Nguyên, ảnh internet
Khuất Nguyên muốn khuyên vua Sở làm theo phép tân chính (chính sách mới) của nước Tần, thu bớt đặc quyền, bổng lộc của quan lại, tập trung quyền lực về triều đình. Ông nói thừa tướng nước Tần đều là người nước khác. Vua Tần vì sao không chọn thừa tướng là người Tần? Vì không để họ có dây mơ rễ má kết đảng kết bè. Quyền lực tập trung nơi vua thì nước mới mạnh. Nay nước Sở phong quá nhiều đất đai cho hoàng thân quốc thích làm suy yếu chính quyền trung ương.
Để chấn chỉnh triều cương, Khuất Nguyên tham mưu cho vua Sở ban bố tân chính thu hẹp lãnh địa quý tộc. Con cháu quan lại nếu 3 đời không lập công thì bắt đi khai hoang. Những kẻ quyền quý lo lắm, đến cầu xin hoàng hậu ngăn chặn tân chính. Khi vua đang thượng triều, tân chính đang được công bố thì nô tì cấp báo hoàng hậu bị đau bụng. Vua bãi triều, chạy vào hậu cung thăm hoàng hậu. Tân chính không được ban hành. Hiền tài chán nản, quan tham lộng hành, triều đình mục ruỗng. Về sau, vua Sở bị vua Tần bắt giam, chết trong tù ngục nước Tần. Khuất Nguyên ôm hoài bão cải cách trẫm mình xuống dòng sông Mịch La.
Thế kỷ XIX, Nhật Bản đẩy mạnh cải cách theo tư tưởng canh tân của Fukuzawa đã giúp nước này từ phong kiến lạc hậu trở thành đại đế quốc. Ở Việt Nam lúc bấy giờ cũng có một người mang hoài bão canh tân là Nguyễn Trường Tộ. Ông có học vấn sâu rộng, được người đời khen là Trạng Tộ. Noi gương Fukuzawa, ông dâng vua Tự Đức tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều) để chấn hưng đất nước.
Chân dung Nguyễn Trường Tộ, ảnh Bảo tàng Lịch sử VN
Để tránh họa xâm lăng phương Tây, cần phải hiểu sức mạnh phương Tây. Nguyễn Trường Tộ khuyên nhà vua nên sai kẻ hiền tài vượt biển ra ngoài, nghiên cứu các phép đánh giữ của các nước lớn, học tập những cái khôn khéo của thiên hạ, dịch sách khoa học của họ ra tiếng nước Nam để mở mang dân trí. Ông đề nghị nhà vua cho thành lập Bộ Ngoại giao (bên cạnh Lục bộ truyền thống) để chuyên quản về giao tế, thông thương, hội nhập với nước ngoài.
Về chính sách đối ngoại, ông khuyên nhà vua nên học Xiêm La (Thái Lan). Nước ấy trước đây vốn chẳng có thế lực gì to lớn. Nhưng khi người phương Tây quấy động khiến họ chợt thức tỉnh. Họ bèn lấy Anh, Pháp làm bạn; lấy Ý, Bồ làm khách. Họ mời hết các nước trên thế giới đến buôn bán, du lịch, còn Xiêm La thì nghiễm nhiên trở thành ông chủ nhà đĩnh đạc, đàng hoàng, khiến nước lớn thì làm khách, nước nhỏ thì làm bạn, để nước nọ khống chế nước kia, chẳng cần đua đuổi cao xa mà cũng chia quyền lợi được với thiên hạ.
Tiếc rằng triều thần bấy giờ phần nhiều không hiểu thời cục, chỉ một mực thủ cựu, không ai tán thành đề xuất của Nguyễn Trường Tộ. Họ tìm mọi cách bài bác, gièm pha, công kích, vua Tự Đức lại thiếu quả quyết. Bởi thế chương trình cải cách tốn bao tâm lực của Nguyễn Trường Tộ không được đem ra thực hành. Ông qua đời khi mới 41 tuổi, để lại dòng thơ tâm sự ứa nước mắt “Ngửa lòng trả nợ nước nhà/ Người tuy chưa thấy, Trời đà thấy cho”. Đây là ghi chép trong cuốn Những nhà cải cách Việt Nam (Lê Minh Quốc, Nhà xuất bản Trẻ).
Giả thiết rằng các quan đều là người tốt thì họ cũng khó lòng ủng hộ Nguyễn Trường Tộ chỉ vì thói đố kị “cái tốt hơn cũng là kẻ thù của cái tốt” (ngạn ngữ Đức). Huống chi xung quanh Nguyễn Trường Tộ đầy quan tham, thủ cựu. Bi kịch của Trường Tộ, Khuất Nguyên cũng là nỗi đau chung của những nhà cải cách không gặp thời.
Theo cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên thì Thương Ưởng là một trong những người có công cải cách, chấn hưng nước Tần thời Chiến Quốc. Ông cho rằng những kẻ làm việc cao hơn người, thường bị thế tục chê bai; những kẻ có ý nghĩ lỗi lạc, thế nào cũng bị dân chúng trách móc. Vì vậy bậc thánh nhân nếu có thể tìm cách làm cho nước mạnh thì không bắt chước phép cũ, nếu có thể làm cho dân lợi thì không câu nệ ở thói xưa.
Trong lịch sử, nhiều người có tư duy mới, có dũng khí cải cách bị thất bại. Nhưng không vì bi kịch ấy mà hậu nhân không dám cải cách. Con đường phát triển của nhân loại là liên tục, là không có điểm dừng. Và những người cải cách vì dân luôn được tưởng nhớ như lời danh tướng Mỹ Douglas MacArthur: “Bạn được nhớ tới vì những luật lệ bạn phá vỡ”.
Tự Thủy